Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 114/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 114/2023/DS-PT NGÀY 17/03/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai vụ án thụ lý số 51/2023/TLPT- DS ngày 02 tháng 02 năm 2023, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2023/QĐ-PT ngày 22/02/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Minh H, sinh năm 1971;

Đăng ký hộ khẩu thường trú: P 102- C1 Tập thể T, phường T, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của bà H: Ông Nguyễn Anh T – Căn cước công dân số 014xxx000033, do Cục Cảnh sát quản lý hành chính và trật tự xã hội cấp ngày 24/6/2021 (Giấy ủy quyền ngày 13/01/2022 tại Văn phòng Công chứng An Nhất Nam.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1974;Địa chỉ: Đội 7, thôn C, xã P, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Nguyễn Thị Hoài T - Công ty Luật TNHH E.

Người kháng cáo, ông Nguyễn Đức T là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án dân sự sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

Trong đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Minh H và Người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 26/10/2020, bà Nguyễn Minh H chuyển nhượng 240.000 cổ phần của bà H tại Công ty Cổ phần Quốc tế K cho ông Nguyễn Đức T với giá 2.500.000.000 đồng, ông Nguyễn Đức T đã trả bà H được 1.000.000.000 đồng còn lại 1.500.000.000 đồng, ông T khất nợ bà H, ngày 27/10/2020 hai bên đã thanh lý hợp đồng, ngày 30/10/2020 bà H nộp thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân chuyển nhượng vốn. Ngày 01/11/2020 bà Nguyễn Minh H và ông Nguyễn Đức T đã lập giấy vay tiền với nội dung “ngày 01/11/2020 ông Nguyễn Đức T vay bà Nguyễn Minh H 1.500.000.000 đồng hẹn thời gian thanh toán là 03 tháng (từ ngày 01/11/2020 đến ngày 28/02/2021)”. Hết thời hạn, ông Nguyễn Đức T không trả bà H khoản tiền 1.500.000.000 đồng như thỏa thuận.

Bà Nguyễn Minh H đề nghị Tòa án buộc ông Nguyễn Đức T thanh toán trả khoản nợ gốc 1.500.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất 10%/ năm với thời hạn 01 năm từ ngày 01/3/2021 đến ngày 01/3/2022.

Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn là ông Nguyễn Đức T và Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày:

Ông Nguyễn Đức T là 1 cổ đông của Công ty Cổ phần Quốc tế K. Công ty Cổ phần Quốc tế K thành lập ngày 06/7/2018 có 05 thành viên gồm: Nguyễn Đức S, Nguyễn Minh H, Dương Thanh Tuyên, Nguyễn Đức T, Nguyễn Viết Tùng. Tại thời điểm thành lập ông T góp vốn 300.000.000 đồng tương ứng 05% tổng số vốn điều lệ.

Ngày 26/10/2020, ông T nhận chuyển nhượng 240.000 cổ phần của bà Nguyễn Minh H tại Công ty Cổ phần Quốc tế K với giá 2.500.000.000 đồng, hai bên có lập hợp đồng có xác nhận của Công ty Cổ phần Quốc tế K, trong hợp đồng ghi 2.400.000.000 đồng.

Ngày 27/10/2020, ông T và bà H đã thanh lý hợp đồng.

Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng ông T đã thanh toán trả bà H được 1.000.000.000 đồng, còn lại 1.500.000.000 đồng chưa thanh toán. Ngày 01/11/2020 hai bên lập Giấy vay tiền có nội dung ông T vay bà H 1.500.000.000 đồng.

Ông Nguyễn Đức T trình bày tại thời điểm chuyển nhượng, ông T chỉ đủ khả năng thanh toán 1.000.000.000 đồng, còn 1.500.000.000 đồng sẽ do các cổ đông của công ty mua chung gồm Nguyễn Đức T, Nguyễn Viết Tùng và Nguyễn Đức S. Tuy nhiên, ông Đào Đăng K là chồng bà H đề nghị ông T viết giấy xác nhận vay số tiền 1.500.000.000 đồng đại diện cho 3 cổ đông.

Ngày 20/11/2020, ông T được Công ty Cổ phần Quốc tế K cấp Giấy chứng nhận phần vốn góp 2.700.000.000 đồng, tương ứng 45% tổng vốn điều lệ.

Sau khi nhận chuyển nhượng số cổ phần của bà H, ông T kiểm tra sổ sách, kế toán nhận thấy số vốn góp và giá trị cổ phần của bà H không đúng trên thực tế có dấu hiệu khai khống, ông T đã đề nghị ông Khoa chồng bà H để trả lại số cổ phần đã mua và lấy lại 1.000.000.000 đồng. Ông Khoa đồng ý nhưng do không có tiền mặt nên ông Khoa đề nghị trả lại bằng giá trị xe ô tô trị giá 930.000.000 đồng còn lại 70.000.000 đồng trả bằng tiền mặt. Khi hai bên chưa làm thủ tục sang tên xe ô tô, thì ông Khoa đến lấy lại xe ô tô do vậy ông T không thực hiện được việc trả lại số cổ phần.

Nay bà Nguyễn Minh H khởi kiện đòi số tiền 1.500.000.000 đồng và tiền lãi ông T không đồng ý.

Ngày 18/3/2022, ông Nguyễn Đức T có đơn phản tố với nội dung trình bày như trên và đề nghị: Tòa án tuyên Giấy vay tiền ngày 01/11/2020 giữa bà H và ông T vô hiệu do giả tạo và tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa bà H và ông T vô hiệu do bị lừa dối.

Tòa án đã giao cho ông T Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu phản tố nhưng ông T không nộp tiền tạm ứng án phí.

Người làm chứng ông Nguyễn Viết Tùng khai và ngày 09/5/2022 có đơn yêu cầu độc lập nộp cho Tòa án trình bày:

Nội dung các giao dịch thỏa thuận giữa ông Nguyễn Đức T và bà Nguyễn Minh H đều do ông Đào Đăng K là chồng bà H thực hiện, lý do ông T ký giấy vay tiền bà H là vì tại thời điểm mua cổ phần ông T chỉ đủ khả năng thanh toán 1.000.000.000 đồng, còn 1.500.000.000 đồng sẽ do 3 cổ đông là ông Nguyễn Đức T, Nguyễn Viết Tùng, Nguyễn Đức S mua chung. Tuy nhiên thời điểm đó ông Khoa đề nghị ông T viết giấy vay 1.500.000.000 đồng đại diện cho 3 người. Sau khi ông T nhận chuyển nhượng cổ phần của bà H, kiểm tra lại sổ sách thì thấy giá trị cổ phần của bà H tại công ty K không đúng, ông Tùng đề nghị Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa bà H và ông T và yêu cầu bà H nộp bổ sung khoản tiền mua 240.000 cổ phần giá trị 2.400.000.000 đồng vào Công ty K.

Người làm chứng ông Nguyễn Đức S trình bày:

Công ty Cổ phần quốc tế K thành lập tháng 8/2018 có vốn góp trị giá 6.000.000.000 đồng, bao gồm các thành viên bà Nguyễn Minh H góp 40% cổ phần, ông Nguyễn Đức S có 40% cổ phần, ông Nguyễn Viết Tùng góp 7,5% cổ phần, ông Dương Thanh Tuyến góp 7,5% cổ phần, ông Nguyễn Đức T góp 5 % cổ phần.

Tháng 10/2020, bà Nguyễn Minh H đã chuyển nhượng toàn bộ số cổ phần cho ông Nguyễn Đức T với giá 2.500.000.000 đồng, khi mua ông T mới thanh toán được 1.000.000.000 đồng còn nợ bà H 1.500.000.000 đồng, hai bên đã thanh lý hợp đồng, sau đó hai bên lập giấy vay tiền vào ngày 01/11/2020. Ngày 20/11/2020, Công ty Cổ phần quốc tế K đã cấp Giấy chứng nhận vốn góp đối với ông Nguyễn Đức T tại công ty là 45% cổ phần, việc ông T mua cổ phần của bà Nguyễn Minh H là việc cá nhân giữa bà H với ông T không có việc những người còn lại của Công ty mua chung cổ phần của bà H như ông T và ông Tùng trình bày.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn và người đại diện cho Nguyên đơn giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án buộc ông Nguyễn Đức T phải thanh toán trả 1.500.000.000 đồng và trả khoản tiền lãi theo mức lãi suất 10%/năm tính từ ngày 01/3/2021 đến 01/3/2022.

Bị đơn ông Nguyễn Đức T giữ nguyên các ý kiến đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn khởi kiện của Nguyên đơn.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nguyễn Minh H với các lý do:

- Bà Nguyễn Minh H là cổ đông của Công ty Cổ phần quốc tế K nhưng chưa thanh toán tiền cổ phần khi thành lập Công ty.

- Bà Nguyễn Minh H không đủ điều kiện chuyển nhượng cổ phần cho ông Nguyễn Đức T.

- Không có sự việc vay tiền ngày 01/11/2020 giữa ông T và bà Nguyễn Minh H.

- Dấu hiệu lừa dối về giá trị cổ phần của bà Nguyễn Minh H khi chuyển nhượng cổ phần cho ông T.

Và đề nghị:

Tuyên Giấy vay tiền giữa ông T với bà H vô hiệu do giả tạo.

Tuyên Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa bà H với ông T vô hiệu do bị lừa dối.

Kiến nghị chuyển vụ việc sang cơ quan điều tra để làm rõ hành vi có dấu hiệu lừa đảo của bà Nguyễn Minh H.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Thường Tín đã quyết định:

Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nguyễn Minh H về việc “ Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Buộc ông Nguyễn Đức T phải trả bà Nguyễn Minh H số tiền 1.650.000.000 đồng (một tỷ sáu trăm năm mươi triệu đồng), trong đó tiền nợ gốc là 1.500.000.000 đồng, tiền nợ lãi là: 150.000.000 đồng.

Ngoài ra Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không đồng ý, ông Nguyễn Đức T kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm.

Đơn kháng cáo của ông T có nội dung chính: Bản án dân sự sơ thẩm không có căn cứ, bà H là cổ đông sáng lập chưa mua cổ phần đăng ký thành lập Công ty; bà H không đủ điều kiện để chuyển nhượng cổ phần; không có sự việc vay tiền ngày 01/11/2020; bà H có dấu hiệu lừa dối về giá trị cổ phần chuyển nhượng. Về tố tụng, ông đề nghị triệu tập ông Nguyễn Đức S, ông Đào Đăng K tham gia với tư cách là người làm chứng; Công ty K là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không được Toà án nhân dân huyện Thường Tín chấp nhận. Ông T đề nghị huỷ Bản án dân sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đương sự giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, không xuất trình chứng cứ mới.

Luật sư Nguyễn Thị Hoài T trình bầy luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Đức T và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ Bản án dân sự sơ thẩm.

Tham gia phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm:

Về tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung, Toà án cấp sơ thẩm chưa làm rõ phần vốn góp của bà H khi thành lập Công ty năm 2018; chưa làm rõ tính hợp pháp về số cổ phần của bà H. Việc bà H bán cổ phần có được tất cả các cổ đông sáng lập đồng ý không. Có việc Công ty tri ân cho bà H 100.000.000 đồng khi bán cổ phần cho ông T không. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ Bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

Về tố tụng, ông Nguyễn Đức T nộp đơn kháng cáo, nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong hạn luật định là hợp lệ.

Về nội dung, xét yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Đức T, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Theo Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 26/10/2020 được ký kết giữa bà Nguyễn Minh H với ông Nguyễn Đức T (có xác nhận của đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần Quốc tế K – Giám đốc Nguyễn Đức S) thể hiện: bà H chuyển nhượng 240.000 cổ phần của bà H tại Công ty Cổ phần Quốc tế K cho ông T với giá 2.400.000.000 đồng (thực tế giá 2.500.000.000 đồng).

Thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, ông Nguyễn Đức T đã trả bà H được 1.000.000.000 đồng, còn lại 1.500.000.000 đồng, ông T khất nợ bà H.

Ngày 27/10/2020, bà H, ông T đã thanh lý hợp đồng.

Ngày 30/10/2020, bà H nộp thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân chuyển nhượng vốn.

Ngày 01/11/2020, bà Nguyễn Minh H và ông Nguyễn Đức T đã lập Giấy vay tiền với nội dung “ngày 01/11/2020 ông Nguyễn Đức T vay bà Nguyễn Minh H 1.500.000.000 đồng hẹn thời gian thanh toán là 03 tháng (từ ngày 01/11/2020 đến ngày 28/02/2021)”.

Ngày 20/11/2020, Công ty Cổ phần quốc tế K đã cấp Giấy chứng nhận vốn góp đối với ông Nguyễn Đức T tại công ty là 45% cổ phần.

Xem xét yêu cầu kháng cáo, ông T đề nghị Toà án triệu tập ông Nguyễn Đức S, ông Đào Đăng K tham gia với tư cách là người làm chứng; Công ty Cổ phần quốc tế K tham gia với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thấy rằng: Ông Nguyễn Đức S, ông Đào Đăng K đã có lời khai trong hồ sơ vụ án. Việc đưa ông Sơn, ông Khoa tham gia vụ án với tư cách là người làm chứng; Công ty Cổ phần quốc tế K với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là không cần thiết, không làm thay đổi bản chất của vụ án.

Xem xét yêu cầu kháng cáo của ông T cho rằng, bà H là cổ đông sáng lập chưa mua cổ phần đăng ký thành lập Công ty, bà H không đủ điều kiện để chuyển nhượng cổ phần; bà H có dấu hiệu lừa dối về giá trị cổ phần chuyển nhượng, thấy rằng: Tại phiên toà phúc thẩm, ông T khai rằng ông tham gia hoạt động của Công ty và trực tiếp phụ trách thu chi của Công ty từ tháng 3 năm 2019; và trước khi ký Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 26/10/2020, ông T có thời gian tìm hiểu, cân nhắc, thoả thuận để mua cổ phần gần 01 tháng. Việc chuyển nhượng cổ phần giữa hai bên có đại diện theo pháp luật là Giám đốc Công ty (ông Nguyễn Đức S đồng thời là cổ đông của Công ty) làm chứng. Sau khi nhận chuyển nhượng cổ phần, ông T được cấp Giấy chứng nhận vốn góp tại Công ty từ 5% lên 45% cổ phần. Như vậy, kháng cáo của ông T nêu trên không có căn cứ.

Xem xét yêu cầu kháng cáo của ông T cho rằng, không có sự việc vay tiền ngày 01/11/2020, thấy rằng: Khi thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 26/10/2020, ông T còn nợ bà H số tiền 1.500.000.000 đồng. Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần đã được thanh lý (được hiểu là đã thực hiện xong). Ngày 01/11/2020, số tiền còn nợ 1.500.000.000 đồng được bà H và ông T thoả thuận chuyển thành khoản tiền vay, thể hiện tại Giấy vay tiền với nội dung: “ngày 01/11/2020 ông Nguyễn Đức T vay bà Nguyễn Minh H 1.500.000.000 đồng hẹn thời gian thanh toán là 03 tháng (từ ngày 01/11/2020 đến ngày 28/02/2021)”. Thoả thuận của bà H, ông T để chuyển khoản tiền từ số tiền còn nợ khi chuyển nhượng cổ phần thành khoản tiền vay không trái pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội nên có hiệu lực pháp luật.

Bản án dân sự sơ thẩm buộc ông T phải trả bà H tổng số tiền nợ gốc và tiền lãi là 1.650.000.000 đồng theo Hợp đồng vay tài sản là phù hợp với quy định của pháp luật.

Các phần khác của Bản án dân sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

Như đã trích dẫn và phân tích trên, Bản án dân sự sơ thẩm đã xem xét, đánh giá, áp dụng đúng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án; kháng cáo của ông Nguyễn Đức T không được chấp nhận, cần giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Đức T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26, 35, 39, 147, 148, 203, 266, 271, 273, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, 466, 468, 470 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Luật thi hành án dân sự.

Xử:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông ông Nguyễn Đức T.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Thường Tín, cụ thể như sau:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Minh H đối với ông Nguyễn Đức T về việc đòi nợ tài sản cho vay.

Buộc ông Nguyễn Đức T phải trả bà Nguyễn Minh H số tiền 1.650.000.000 đồng (một tỷ sáu trăm năm mươi triệu đồng); trong đó tiền nợ gốc là 1.500.000.000 đồng, tiền nợ lãi là 150.000.000 đồng.

2. Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền:

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

3. Quyền,nghĩa vụ khi thi hành án:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Ðiều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Ðiều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về án phí:

* Án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Đức T phải chịu 61.500.000đ (sáu mươi mốt triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại bà Nguyễn Minh H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 28.500.000đ (hai mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 022746 ngày 05/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thường Tín.

* Án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Đức T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 023033 ngày 06/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thường Tín.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 114/2023/DS-PT

Số hiệu:114/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:17/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về