Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 106/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 106/2023/DS-PT NGÀY 28/11/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh P, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 87/2023/DSPT ngày 01/11/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” Do bản án dân sự sơ thẩm số: 62/2023/DS-ST ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện H bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 149/2023/QĐ-PT ngày 14/11/2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Hồ Thị K, sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh P. Có mặt.

Bị đơn: Ông Tô Minh T, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh P. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1956; ông Hồ Công B, sinh năm 1975; bà Hồ Thị T1, sinh năm 1988. Đồng trú: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh P. Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Hồ Thị K trình bày: Bà K và ông Tô Minh T có quan hệ quen biết với nhau nên bà K cho ông T mượn tiền nhiều lần. Vào ngày 04/7/2022 ông T có mượn của bà K 50.000.000đ hẹn đến ngày 24/7/2022 sẽ trả. Cùng ngày 04/7/2022, ông T có mượn của bà K số tiền 430.000.000đ, ông T hẹn đến ngày 04/9/2022 sẽ trả đủ, cả hai lần mượn ông T đều viết giấy mượn tiền. Tuy nhiên, đến nay ông T vẫn chưa trả được cho bà K hai khoản tiền trên. Do đó, bà K khởi kiện yêu cầu giải quyết buộc ông T phải trả cho bà K tổng số tiền nợ là 480.000.000đ, bà K không yêu cầu ông T phải trả tiền lãi.

Việc ông T trình bày là bà K và ông T có hùn hạp làm ăn chung nên bà K đưa tiền cho ông T nhiều lần và ông T đã trả cho bà K, chỉ còn nợ lại khoản 70.000.000đ đến 80.000.000đ là không đúng và không có việc bà K ép ông T viết các giấy nhận nợ như ông T trình bày.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà bị đơn ông Tô Minh T trình bày: Trước đây ông T, bà K làm ăn mua bán bất động sản chung, ông T xác nhận có mượn tiền của bà K nhiều lần nhưng hiện nay ông T chỉ còn nợ của bà K số tiền 200.000.000đ. Việc giấy mượn tiền của bà K là do bà K thuê xã hội đen chặn đường ép ông T ký vào giấy mượn tiền nhưng ông T không cung cấp được chứng cứ. Lần cuối cùng ông T chuyển khoản trả cho bà K là vào tháng 5/2022, sau đó ông T không chuyển cho bà K khoản tiền nào nữa do bà K với ông T xảy ra mâu thuẫn và bà K nhiều lần đến quậy ông T cùng gia đình. Nay bà K khởi kiện ông T chỉ chấp nhận còn nợ và trả cho bà K 200.000.000đ, do điều kiện khó khăn nên xin được trả nợ dần.

Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị M, bà Hồ Thị T1 trình bày: Trước đây (không nhớ rõ thời gian) ông T có mượn tiền của bà M và đã chuyển trả đủ cho bà M qua tài khoản của bà T1, đối với khoản nợ giữa ông T với bà K thì bà M, bà T1 không có liên quan, bà M, bà T1 cũng không có yêu cầu hay tranh chấp gì đối với vụ án nên bà M, bà T1 xin Tòa án xét xử vắng mặt.

Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hồ Công B trình bày: Ông B không có liên quan gì đến khoản nợ giữa ông T và bà K, không có yêu cầu hay tranh chấp gì nên đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 62/2023/DS-ST ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện H đã quyết định:

Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Áp dụng các Điều 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị K, buộc bị đơn ông Tô Minh T phải trả cho nguyên đơn bà Hồ Thị K số tiền nợ gốc 480.000.000đ (Bốn trăm tám mươi triệu đồng) về khoản tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu lãi chậm trả, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 10/10/2023, bị đơn ông Tô Minh T có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng, về nội dung: Bị đơn cho rằng bị nguyên đơn ép kí giấy nhận nợ, có quan hệ làm ăn với nguyên đơn nên trả tiền cho nguyên đơn không ghi giấy tờ nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng năm 2015 - giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến các bên đương sự, kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Tô Minh T kháng cáo và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong hạn luật định là kháng cáo hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung kháng cáo của bị đơn, bị đơn có quan hệ làm ăn chung với nguyên đơn và đã nhiều lần chuyển tiền và tài khoản bà K, cũng có lần đưa tiền mặt. Giấy nợ ngày 4/7/2022 do bà K dân một nhóm thanh niên ép bị đơn ký, bị đơn cũng không nhận số tiền này, do đó kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Bị đơn thừa nhận trực tiếp ký vào các giấy mượn tiền ngày 04/7/2022, với hai khoản nợ 430.000.000đ và 50.000.000đ, trình bày đã trả tiền mặt cho nguyên đơn 180.000.000đ, không nhớ thời gian và không có giấy tờ giao nhận, trả cho anh ruột nguyên đơn 150.000.000đ, cũng không nhớ thời gian và không có giấy tờ giao nhận, chuyển khoản cho em bà K là Hồ Thị T1 số tiền 50.000.000đ, chuyển khoản trực tiếp cho bà K 120.000.000 (BL 64). Bị đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh mình trả các khoản tiền mặt, không được nguyên đơn và người liên quan thừa nhận. Tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn trình bày lần cuối cùng chuyển tiền cho bà K vào tháng 5/2022, trước khi lập giấy nợ ngày 04/7/2022, do đó không có cơ sở chứng minh số tiền chuyển khoản cho bà T1, bà K qua số tài khoản là thanh toán khoản vay theo Giấy mượn tiền ngày 04/7/2022. Bị đơn cho rằng nguyên đơn ép buộc bị đơn ký vào các giấy mượn tiền nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh.

Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, cần được chấp nhận do đó HĐXX phúc thẩm không thể thỏa mãn với yêu cầu kháng cáo của bị đơn.

[3] Về án phí: Bị đơn kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Tô Minh T - giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng các Điều 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hợi quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị K, buộc bị đơn ông Tô Minh T phải trả cho nguyên đơn bà Hồ Thị K số tiền nợ gốc 480.000.000đ (Bốn trăm tám mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành xong.

Về án phí:

Bị đơn ông Tô Minh T phải chịu 24.000.000đ (Hai mươi bốn triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ 300.000đ đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0010184 ngày 19/10/2023 nên phải tiếp tục nộp 24.000.000đ.

H lại cho nguyên đơn bà Hồ Thị K số tiền tạm ứng án phí 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng) theo 02 Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007275 và số 0007276 cùng ngày 04/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh P.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 106/2023/DS-PT

Số hiệu:106/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về