Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 10/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 10/2021/DS-PT NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 92/2020/TLPT-DS ngày 11 tháng 11 năm 2020 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2020/QĐXXPT-DS ngày 10 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hòa Đ, sinh năm 1975.

Chị Tạ Thị Hồng H, sinh năm 1978.

Đều có địa chỉ: khu 12, xã Y, huyện H, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Chị Tạ Thị Bích L, sinh năm 1985.

Địa chỉ: khu 12, xã Hương X, huyện H, tỉnh Phú Thọ.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1955 - Luật sư Văn phòng luật sư Hùng Vthuộc Đoàn luật sư tỉnh Phú Thọ.

(Anh Đ, chị H, chị L, ông H đều có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 09 tháng 7 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Nguyễn Hòa Đ trình bày:

Vợ chồng anh có cho chị Tạ Thị Bích L vay số tiền là 420.000.000 đồng, cụ thể vào các ngày như sau:

Ngày 04 tháng 10 năm 2016, cho vay 200.000.000 đồng, thời hạn trả nợ là tháng 02/2017;

Ngày 14 tháng 10 năm 2016, cho vay 70.000.000 đồng, thời hạn trả nợ là ngày 14 tháng 10 năm 2017;

Ngày 12 tháng 4 năm 2017 (tức ngày 16 tháng 3 năm 2017 âm lịch) cho vay 150.000.000 đồng, không ghi thời hạn trả nợ.

Anh đã yêu cầu nhiều lần nhưng chị L không trả nợ. Chị L chưa trả khoản tiền nào cho vợ chồng anh kể từ ngày vay cho đến nay.

Nay anh yêu cầu chị L phải trả số tiền gốc đã vay tổng số là 420.000.000 đồng cho vợ chồng anh. Anh không yêu cầu chị L phải trả lãi.

Số tiền cho vay trên là tài sản chung của vợ chồng. Chị Tạ Thị Hồng H là vợ anh, đã ủy quyền cho anh theo giấy ủy quyền ngày 09 tháng 7 năm 2020 để khởi kiện tại Tòa án nên anh đã làm đơn khởi kiện và ký vào đơn khởi kiện là đúng quy định của pháp luật.

Chị Tạ Thị Hồng H trình bày: Nhất trí với yêu cầu khởi kiện và ý kiến trình bày của anh Nguyễn Hòa Đ. Chị Tạ Thị Bích L chưa trả khoản tiền nào cho vợ chồng chị kể từ ngày vay cho đến nay.

Bị đơn là chị Tạ Thị Bích L trình bày:

Chị thừa nhận có vay cửa Anh Đ, chị H tổng số tiền là 420.000.000 đồng, do chị H là người trực tiếp giao tiền cho chị, cụ thể từng lần vay như Anh Đ đã trình bày, có viết 03 giấy vay tiền vào các ngày như Anh Đ đã trình bày.

Đối với số tiền 70.000.000 đồng, vay ngày 14 tháng 10 năm 2016, chị đã trả đủ gốc 70.000.000 đồng và trả lãi 02 tháng là 5.600.000 đồng, mỗi tháng là 2.800.000 đồng.

Đối với số tiền 150.000.000 đồng vay ngày 12 tháng 4 năm 2017 (tức ngày 16 tháng 3 năm 2017 âm lịch), sau khi vay được 4 tháng thì chị đã trả đủ số tiền gốc là 150.000.000 đồng và trả lãi là 6.000.000 đồng/tháng, 04 tháng là 24.000.000 đồng, trả lãi vào ngày 16 âm lịch hàng tháng.

Đối với hai lần trả nợ trên, chị H là người trực tiếp nhận tiền nhưng giữa chị và chị H không viết giấy tờ gì để xác nhận chị đã trả tiền cho chị H. Chị cũng không được nhận lại giấy vay tiền mà hai bên đã viết vào thời điểm chị vay tiền của chị H.

Đến nay chị chỉ còn nợ số tiền nợ gốc là 200.000.000 đồng vay vào ngày 04 tháng 10 năm 2016. Do vậy, chị không nhất trí toàn bộ yêu cầu của Anh Đ và chị H mà chỉ nhất trí trả số tiền nợ gốc là 200.000.000 đồng. Vì điều kiện làm ăn khó khăn nên chị xin được trả dần.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là luật sư Nguyễn Đức H trình bày: Chị Tạ Thị Bích L có vay tiền nhưng chỉ giao dịch với chị Tạ Thị Hồng H, khi đó không có mặt anh Nguyễn Hòa Đ nên chị H phải đứng ra khởi kiện với đúng. Anh Đ làm đơn khởi kiện là không đúng, chị H cũng không có chữ ký trong đơn khởi kiện. Đến nay không thể ký vào đơn khởi kiện được nữa nên đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Hòa Đ. Về nội dung tranh chấp hợp đồng vay tài sản, luật sư không có ý kiến gì.

Các bên đương sự không bổ sung tài liệu chứng cứ gì, không yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ gì khác, không yêu cầu Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Phú Thọ đã Quyết định: Căn cứ vào Điều 463, 466, 469, 470, 357, 468 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 1 Điều 147, Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Buộc chị Tạ Thị Bích L phải trả cho anh Nguyễn Hòa Đ và chị Tạ Thị Hồng H tổng số tiền là 420.000.000 đồng (Bốn trăm hai mươi triệu đồng).

Bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Ngày 05 tháng 10 năm 2020 chị Tạ Thị Bích L kháng cáo đề nghị hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Phú Thọ với lý do Bản án dân sự sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Tại phiên tòa chị Tạ Thị Bích L và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như trên.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ phát biểu quan điểm đề nghị:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Những người tham gia tố tụng dân sự chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bác yêu cầu kháng cáo của chị Tạ Thị Bích L. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Phú Thọ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của chị Tạ Thị Bích L làm trong hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của chị Tạ Thị Bích L đề nghị hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Phú Thọ với lý do Bản án dân sự sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định số tiền Anh Đ, chị H cho chị L vay, đồng thời chị L cũng thừa nhận vay của Anh Đ và chị H tổng số tiền gốc là 420.000.000 đồng. Khi vay, chị L có viết 03 giấy vay tiền đều với nội dung là chị L vay của vợ chồng Anh Đ, chị H nên xác định đây là là tài sản chung của vợ chồng chị H và Anh Đ. Chị H đã ủy quyền cho Anh Đ theo giấy ủy quyền ngày 09 tháng 7 năm 2020 để khởi kiện tại Tòa án là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 24 của Luật Hôn nhân và gia đình. Anh Đ đã làm đơn khởi kiện và ký vào đơn khởi kiện là đúng quy định tại Điều 186 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa chị H vẫn nhất trí với yêu cầu khởi kiện và ý kiến của Anh Đ. Anh Đ và chị H được xác định là đồng nguyên đơn.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án là đúng quy định của pháp luật. Do đó, kháng cáo của chị L không được chấp nhận.

[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ xét thấy phù hợp nên được chấp nhận.

[4] Quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị L tại phiên tòa là không phù hợp nên không được chấp nhận.

[5] Về án phí: Chị Tạ Thị Bích L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bác đơn kháng cáo của chị Tạ Thị Bích L. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Phú Thọ.

[2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Chị Tạ Thị Bích L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm. Xác nhận chị Tạ Thị Bích L đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm tại Biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0002455 ngày 08 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Phú Thọ.

Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 10/2021/DS-PT

Số hiệu:10/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về