Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 09/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 09/2023/DS-ST NGÀY 15/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 02 năm 2023, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự đã thụ lý số: 184/2022/TLST- DS ngày 31 tháng 10 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 149/2022/QĐXXST-DS ngày 28/12/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/2023/QĐST-DS ngày 16/01/2023. Giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh năm 1990 (vắng mặt). Địa chỉ: số I đường T, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.

Chị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1971 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/10/2022 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Quỳnh N trình bày: Vào ngày 06/7/2022 (âl) bà T có hỏi mượn số tiền là 400.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận bằng miệng lãi suất là 1%/tháng, thời hạn trả nợ vay là ngày 16/7/2022 (âl). Tuy nhiên, sau khi vay bà T không có trả tiền vay theo thỏa thuận, còn nợ lại chị N số tiền vốn gốc là 400.000.000 đồng. Do đó, nay chị N yêu cầu bà T phải hoàn trả cho chị N số tiền vay là 400.000.000 đồng vốn gốc, không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn bà Nguyễn Thị T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không có lời khai.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình, riêng bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình.

- Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 463, 466 Bộ luật dân sự năm 2015: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Quỳnh N, buộc bị đơn bà Nguyễn Thị T có nghĩa vụ hoàn trả cho chị N số tiền vay là 400.000.000 đồng. Ghi nhận chị N không yêu cầu tính lãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Quỳnh N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn bà Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị N, bà T là phù hợp.

[2] Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là văn bản có tiêu đề: “Giấy mượn nợ” đề ngày 06/7/2022 (âl) có ghi địa chỉ của bà Nguyễn Thị T là ở ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre. Do đó, căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định bà Nguyễn Thị T đã cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung là phù hợp.

[3] Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn chị N cung cấp là văn bản có tiêu đề: “Giấy mượn nợ” đề ngày 06/7/2022 (âl) thể hiện nội dung như sau: “Tôi tên: Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh năm 1990….vào ngày 6 tháng 7 năm 2022 (Âl) tôi có cho bà Nguyễn Thị Thủy s năm 1971 CMND 32122xxxx thường trú tại Tân Thuận Ngoài T Mỏ Cày Bắc B mượn số tiền là 400.000.000 (bốn trăm triệu đồng). Đến ngày 16 tháng 7 năm 2022 (Âl) sẽ hoàn trả lại số tiền trên. Nếu như không giữ đúng như đã hứa bà T sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn trước pháp luật. Bến Tre ngày 6 tháng 7 năm 2022 Âl. Bên nhận tiền T, Nguyễn Thị T. Bên giao tiền, Nguyễn Thị Quỳnh N”. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ: bản sao đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Quỳnh N và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện của chị N; thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo giao nộp tài liệu, chứng cứ cho phía bị đơn là bà Nguyễn Thị T, tuy nhiên bà T vẫn vắng mặt không lý do trong suốt quá trình giải quyết vụ án, đồng thời không có giao nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của bà T đối với yêu cầu của nguyên đơn chị N, cũng như không có giao nộp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào để phản đối yêu cầu của nguyên đơn chị N đưa ra. Do đó, căn cứ vào Điều 91 và 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, Hội đồng xét xử xét thấy: có đủ căn cứ xác định bà T đã vay tiền của chị N số tiền vay là 400.000.000 đồng, do đó bản thân bà T là bên vay đã tham gia giao dịch về vay tiền với chị N nhưng không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền vay của mình là vi phạm hợp đồng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chị N, do đó cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N, buộc bà T phải hoàn trả cho chị N số tiền vay là 400.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 463 và 466 Bộ luật dân sự năm 2015. Việc chị Như k yêu cầu tính lãi là sự tự nguyện của bà nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Xét thấy quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận toàn bộ.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: buộc bà T phải chịu do toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị N được Tòa án chấp nhận, án phí bà T phải chịu là: 400.000.000 đồng x 5% = 20.000.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 463, 466 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Quỳnh N.

Buộc bà Nguyễn Thị T phải hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Quỳnh N số tiền vay là 400.000.000 đồng vốn gốc.

Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Buộc bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí là 20.000.000 đồng.

Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Quỳnh N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.160.000 đồng theo biên lai thu số 0000548 ngày 28/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Bắc.

Án phí sung vào công quỹ nhà nước.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định số 06/2022/QĐ-BPKCTT ngày 29/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ”.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 09/2023/DS-ST

Số hiệu:09/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về