Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 08/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 08/2024/DS-PT NGÀY 08/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Vào các ngày 02 và 08 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 342/2023/TLPT-DS ngày 20 tháng 10 năm 2023, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 118/2023/DS-ST ngày 05 tháng 09 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 324/2023/QĐ-PT ngày 5 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 116/QĐPT-DS ngày 27-12-2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị L, sinh năm 1984, cư trú tại: Tổ A, khu phố A, thị trấn T, huyện T, tỉnh T, (có mặt)

- Bị đơn: Bà Đỗ Thị H, sinh năm 1979; ông Phan Văn H1, sinh năm 1970.

Cùng cư trú tại: Tổ A, khu phố A, thị trấn T, huyện T, tỉnh T, (bà H vắng mặt, có ủy quyền; ông H1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

Người đại diện theo ủy quyền của bà Đ Thị H: Ông Lê Thanh H2, sinh năm 1971, cư trú tại: Tổ A, ấp B, T, C, tỉnh Tiền Giang, (có mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Đ Thị H: Luật sư Nguyễn Văn Q, của Văn phòng L1, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Trần Thị H3, sinh năm 1961, cư trú tại: Tổ D, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T, (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

+ Chị Vũ Thị P, sinh năm 1987, cư trú tại: số A, tổ E, khu phố A, thị trấn T, huyện T, tỉnh T, (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

- Người kháng cáo: Bà Đỗ Thị H, ông Phan Văn H1, là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo Đơn khởi kiện ngày 19-6-2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Vũ Thị L trình bày:

Chị cho bà Đỗ Thị H vay tiền nhiều lần để bà H cho vay đáo hạn ngân hàng, cụ thể như sau:

Chị nhờ mẹ ruột là bà Trần Thị H3 đứng tên cho vay 5.800.000.000 đồng theo giấy nợ ngày 27-10-2022 bà H ký nhận, tiền vay chị giao 03 lần bằng tiền mặt, gồm: Ngày 25-10-2022 giao 1.800.000.000 đồng; ngày 26-10-2022 giao 2.000.000.000 đồng; ngày 27-10-2022 giao 2.000.000.000 đồng.

Chị nhờ em ruột là Vũ Thị P đứng tên cho vay 1.350.000.000 đồng, bà H ký giấy nợ ngày 26-10-2022 (âm lịch), tiền vay chị giao 03 lần, gồm: Ngày 13-10- 2022 chuyển khoản 550.000.000 đồng; ngày 14-10-2022 chuyển khoản 500.000.000 đồng; ngày 18-10-2022 giao tiền mặt 300.000.000 đồng.

Nhờ chị Vũ Thị P đứng tên cho vay 1.500.000.000 đồng theo giấy nợ ngày 27-10-2022 (âm lịch), chị giao cho bà H 01 lần bằng tiền mặt.

Chị trực tiếp cho vay 600.000.000 đồng qua 02 lần chuyển khoản, bà H ký giấy vay ngày 05-12-2022.

Tổng cộng số tiền vay là 9.250.000.000 đồng, lãi thỏa thuận 2%/tháng, đã trả được tổng cộng 646.000.000 đồng tiền lãi. Kể từ ngày 02-12-2022, bà H tuyên bố vỡ nợ và không trả tiền lãi nữa.

Chị đòi nhiều lần, có gặp chồng bà H là ông Phan Văn H1, ông H1 thỏa thuận giao đất tại xã T, huyện T để trừ nợ nhưng do ông H1 kêu giá quá cao (95.000.000 đồng/01m ngang), giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế chấp cho ngân hàng để đảm bảo khoản nợ vay 900.000.000 đồng nên việc thỏa thuận không thực hiện được.

Vì vậy, chị khởi kiện yêu cầu bà H, ông H1 cùng liên đới trả cho chị nợ vay gốc 9.250.000.000 đồng và tiền lãi theo mức lãi suất 0,83%/tháng, tính từ ngày ký giấy nợ đến khi Tòa án xét xử xong vụ án.

- Bị đơn bà Đỗ Thị H, ông Phan Văn H1 do anh Trần Quốc T đại diện theo ủy quyền trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trình bày:

Bà H có vay của chị L số tiền 600.000.000 đồng vào ngày 05-12-2022, chị L giao tiền bằng hình thức chuyển khoản để bà H trả lãi cho người khác, thỏa thuận lãi suất 30%/tháng; chưa làm giấy nợ, chưa trả nợ gốc, nợ lãi lần nào.

Thực tế bà H đã vay tiền của chị L rất nhiều lần, từ tháng 01 năm 2020, mỗi lần vay có làm giấy nợ, do chị L viết, chỉ viết tên người vay, không viết tên người cho vay.

Sau khi trả nợ, chị L giao lại cho bà H các giấy nợ của số tiền đã trả hoặc cộng dồn.

Đến ngày 26-10-2022, chị L và bà H viết lại giấy vay tiền với số tiền nợ gốc 1.350.000.000 đồng là cộng dồn của giấy vay ngày 13-10-2022 số tiền vay 550.000.000 đồng, giấy vay ngày 14-10-2022 số tiền vay 500.000.000 đồng và giấy vay ngày 18-10-2022 số tiền vay 300.000.000 đồng.

Vào ngày 27-10-2022, chị L và bà H tiếp tục tính toán lại tất cả các khoản vay trước và viết lại giấy vay tiền thể hiện số tiền vay gốc là 5.800.000.000 đồng, nhưng không cộng dồn số tiền 1.350.000.000 đồng vào giấy vay tiền 5.800.000.000 đồng này. Hiện nay, bà H đang giữ bản chính các giấy vay tiền tính từ tháng 01 năm 2020 đến ngày 13-10-2022. Còn giấy vay tiền ngày 26-10-2022 số tiền 1.350.000.000 đồng và ngày 27-10-2022 số tiền 5.800.000.000 đồng thì chị L đang giữ bản chính.

Ngoài ra, ngày 27-10-2022, bà H có vay thêm của chị L số tiền nợ gốc 1.500.000.000 đồng. Vì vậy, tính đến ngày 27-10-2022 tổng cộng số tiền nợ gốc bà H còn nợ của chị L là: 5.800.000.000 đồng + 1.350.000.000 đồng + 1.500.000.000 đồng = 8.650.000.000 đồng. Đến ngày 05-12-2022, bà H tiếp tục vay của chị L số tiền 600.000.000 như trên. Tính đến nay, bà H chỉ còn nợ của chị L số tiền nợ gốc 9.250.000.000 đồng. Thông qua tin nhắn zalo ngày 03-01-2023 giữa chị L và bà H thì các bên chốt lại số tiền nợ gốc còn nợ là 8.320.000.000 đồng. Tuy nhiên, tổng số tiền nợ gốc thực tế bà H vay của chị L là khoảng 15.300.400.000 đồng, đã trả được 01 phần nợ gốc và chỉ còn nợ lại số tiền nợ gốc 8.320.000.000 đồng, tiền lãi đã trả cho chị L là 22.540.000.000 đồng.

Bà H yêu cầu khấu trừ tiền lãi bà H đã trả, nếu sau khi khấu trừ còn nợ lại bao nhiêu thì bà H đồng ý trả cho chị L.

Ông Phan Văn H1 là chồng bà H, tuy vợ chồng sống chung nhưng ông H1 không liên quan đến tiền vay, ông H1 thu nhập từ nghề làm rẫy, giao cho bà H quán xuyến để chi tiêu trong gia đình; ông H1 chỉ biết bà H có vay tiền của chị L để cho vay đáo hạn ngân hàng nhưng cụ thể thế ông H1 không biết. Trước khi kiện, chị L có gặp ông H1 báo cho biết việc bà H không còn khả năng trả nợ, ông H1 có nói việc đã vờ lở rồi thì để bà H xử lý tài sản trả. Vợ chồng ông H1 có khoảng 3,5 ha đất rẫy ở ấp Đ, xã T; đất và nhà tại khu phố A, thị trấn T; đất và nhà thuộc khu phố D, thị trấn T; 01 phần đất ở thuộc ấp C, xã S; 01 phần đất ở thuộc ấp T, xã T; 01 phần đất ở thuộc ấp T, xã T; 01 phần đất ở thuộc ấp T, xã T; 01 phần đất ở thuộc ấp H, xã T; 01 phần đất ở ấp T, xã T. Toàn bộ đất trên đều đã thế chấp ngân hàng hoặc đã cầm cho người khác.

Ông H1 không vay tiền của chị L, là nợ riêng của bà H, nếu phải trả số tiền trên thì là nghĩa vụ của bà H, ông H1 không liên quan.

- Bản án Dân sự sơ thẩm số: 118/2023/DS-ST ngày 05 tháng 09 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T, quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị L đối với bà Đỗ Thị H và ông Phan Văn H1.

Buộc bà Đỗ Thị H và ông Phan Văn H1 cùng có nghĩa vụ trả lại cho chị Vũ Thị L 9.250.000.000 (chín tỷ hai trăm năm mươi triệu) đồng tiền nợ gốc và 88.135.000 (tám mươi tám triệu một trăm ba mươi lăm nghìn) đồng tiền lãi, tổng cộng là 9.338.135.000 (chín tỷ ba trăm ba mươi tám triệu một trăm ba mươi lăm nghìn) đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí; quyền kháng cáo; quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự.

- Vào ngày 18-9-2023, ông Phan Văn H1 và bà Đỗ Thị H kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L vì đã trả lãi quá nhiều, nếu tính ra thì chị L phải trả ngược lại; ngoài ra ông H1 yêu cầu không buộc ông liên đới trả nợ vì việc vay mượn tiền giữa bà H và chị L ông H1 không biết và không liên quan.

- Tòa án cấp phúc thẩm đã đưa bà Trần Thị H3 và chị Vũ Thị P vào tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, bà H3 và chị p đồng ý tham gia và có bản tự khai như sau:

+ Bà Trần Thị H3 khai:

Bà là mẹ chồng của chị L, chị L có nói bà H kinh doanh bất động sản và cho vay đáo hạn ngân hàng U lắm nên chị L cho bà H vay, có nhờ bà đứng tên cho vay trong một giấy nợ ngày 27-10-2022, số tiền cho bà H vay là 5.800.000.000 đồng, là tiền của chị L, bà không liên quan, không tranh chấp, không yêu cầu gì.

+ Chị Vũ Thị P khai:

Chị là em ruột của chị L, chị L có cho bà H vay tiền nhiều lần, trong đó có giấy nợ ngày 26-10-2022 (âm lịch) nhằm ngày 19-11-2022, số tiền cho vay 1.350.000.000 đồng và giấy nợ ngày 27-10-2022 (âm lịch) nhằm ngày 20-11- 2022, số tiền cho vay 1.500.000.000 đồng là chị L nhờ chị đứng tên bên cho vay, số tiền cho bà H vay là của chị L, chị không liên quan, không tranh chấp, không yêu cầu gì.

- Tại phiên tòa phúc thm:

+ Người đại diện theo ủy quyền của bà Đ Thị H là ông Lê Thanh H2 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của bà H và trình bày như sau:

Bà H vay tiền của chị L đã nhiều năm, viết nhiều giấy nợ, chuyển khoản nhiều lần; đối với số tiền vay chị L khởi kiện, bà H chỉ chấp nhận trả 02 khoản do chị L đứng tên cho vay; các giấy nợ bà H3 và chị P đứng tên cho vay là không có thật, bà H không qua lại với 02 người này. Số tiền bà H thừa nhận nợ cũng đã trả xong vì bà H đã trả hơn 22 tỷ đồng theo các bản sao kê chuyển khoản nhiều năm qua ngân hàng.

+ Ông H3 vắng mặt, không có đơn thay đi hay bổ sung gì đối với kháng cáo.

+ Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hp pháp của bà Đ Thị H trình bày:

Trong hồ sơ không có biên bản nghị án; Thẩm phán ra quyết định thu thập chứng cứ và nhận chứng cứ cùng một ngày; không tổ chức cho các bên đương sự đối chất và không công khai chứng cứ, đề nghị hủy bản án sơ thẩm. Nếu không hủy bản án sơ thẩm thì đề nghị xem xét về nội dung, bà H chỉ thừa nhận khoản vay 1.350.000.000 đồng theo giấy viết tay ngày 26-10-2022 và khoản vay 600.000. 000 đồng theo giấy viết tay ngày 05-12-2022. Các khoản vay khác không có thật, không có tên chị L, không có biên bản giao nhận tiền, ngoài giấy vay ra không có chứng cứ gì khác chứng minh có giao tiền, bà H không chấp nhận. Ông H3 không liên quan đến tiền vay nên đề nghị không buộc ông H3 liên đới trả.

+ Chị Vũ Thị L: Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bà H, ông H3 vì nợ vay là có thật, do chị và bà H chuyển khoản nhiều lần, số tiền rất lớn, có khi trong ngày chuyển 2-3 lần không ghi giấy nợ, vì vậy nếu bên bà H chứng minh được sau khi vay có chuyển khoản trả bao nhiều thì chị chấp nhận trừ vào nợ vay bấy nhiêu và yêu cầu trả lãi theo quy định pháp luật.

- Ý kiến của Vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T tham gia phiên tòa:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: Kháng cáo của bà H và ông H3 không có căn cứ nhưng nếu bên bà H chứng minh được có trả nợ thì đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm, khấu trừ vào số nợ mà bà H, ông H3 phải trả cho chị L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Đơn kháng cáo của bà Đỗ Thị H, ông Phan Văn H1 là hợp lệ, đúng theo quy định tại các Điều: 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét về việc xác định người tham gia tố tụng: Bà Trần Thị H3, chị Vũ Thị P là người đứng tên bên cho vay trong 03 giấy nợ, là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa vào tham gia tố tụng là vi phạm Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng vi phạm này Tòa án cấp phúc thẩm đã khắc phục được nên không phải hủy bản án sơ thẩm vì lý do này, Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

[2] Xét kháng cáo của bà Đỗ Thị H, thấy rằng:

Chị Vũ Thị L kiện đòi tiền vay căn cứ vào các giấy vay tiền, gồm:

+ Giấy vay ngày 27-10-2022, bà Trần Thị H3 đứng tên cho vay, số tiền vay 5.800.000.000 đồng.

+ Giấy vay ngày 26-10-2022 (âm lịch), nhằm ngày 19-11-2022, chị Vũ Thị P đứng tên cho vay, số tiền vay 1.350.000.000 đồng, chị L giao tiền 03 lần, gồm: Ngày 13-10-2022 chuyển khoản 550.000.000 đồng; ngày 14-10-2022 chuyển khoản 500.000.000 đồng; ngày 18-10-2022 giao tiền mặt 300.000.000 đồng.

+ Giấy vay ngày 27-10-2022 (âm lịch), nhằm ngày 20-11-2022, chị Vũ Thị P đứng tên cho vay, số tiền vay 1.500.000.000 đồng, chị L giao cho bà H 01 lần bằng tiền mặt.

+ Giấy vay ngày 05-12-2022, bà H trực tiếp cho vay, số tiền 600.000.000 đồng, qua 02 lần chuyển khoản.

Các giấy vay tiền đều có bà H ký nhận, các lần chuyển khoản là chị L chuyển vào tài khoản của bà H đứng tên mở tại ngân hàng, phù hợp với các chứng từ sao kê do ngân hàng cung cấp.

Ngoài ra, theo lời khai của hai bên và theo các giấy nợ đã thanh toán xong và đã được xé, do bà H cung cấp cho Tòa án thì bà H đã vay tiền của chị L nhiều lần, từ năm 2020 đến đầu năm 2023, mục đích bà H vay tiền là để cho vay đáo hạn ngân hàng, kinh doanh bất động sản.

Vì vậy, có căn cứ xác định giao dịch vay giữa bà H và chị L là có thật.

Việc chị L nhờ bà H3 và chị P đứng tên cho vay đã được các bên thừa nhận, bà H cũng đã thống nhất.

Tổng cộng số tiền vay theo các giấy nợ là 9.250.000.000 đồng.

Bà H cho rằng đã trả tổng cộng hơn 22 tỷ đồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, lời khai này mâu thuẫn với các khoản vay vì quá lớn so với số tiền vay đã trả và các khoản vay hiện đang tranh chấp.

Bà H cho rằng có trả tiền mặt nhưng không có chứng cứ chứng minh, chị L không thừa nhận.

Thực tế bà H có chuyển khoản cho chị L nhiều lần, trong đó có chuyển tiền trả nợ vay gốc, nợ lãi, tiền mua hàng hóa và có một số lần không ghi lý do chuyển.

Qua đối chiếu chứng từ chuyển khoản qua lại giữa hai bên, đối chiếu giấy vay tiền kể từ ngày giao và ký nhận khoản nợ đầu tiên là ngày 13-10-2022 đến ngày chấm dứt chuyển khoản là ngày 02-3-2023, tổng số tiền chị L giao cho bà H là 11.540.860.000 đồng. Bà H chuyển khoản cho chị Liên từ ngày ký nhận khoản nợ đầu tiên là ngày 14-10-2022 đến ngày chấm dứt giao dịch với nhau là ngày 09- 01-2023, tổng cộng 3.896.840.000 đồng, theo các bản sao kê do ngân hàng cung cấp cho Tòa án, cụ thể là:

Các khoản tiền chị L giao cho bà H từ khi bà H ký các giấy nợ nêu trên, gồm:

Giao tiền mặt, gồm: Ngày 27-10-2022 giao 5.800.000000 đồng; ngày 27-10- 2022 âm lịch nhằm ngày 20-11-2022 giao 1.500.000.000 đồng; ngày 18-10- 2022 giao 300.000.000 đồng. Tổng cộng 7.600.000.000 đồng.

Chuyển vào tài khoản của bà H tại ngân hàng, gồm: Ngày 13-10-2022 chuyển 450.000.000 đồng và 100.000.000 đồng; ngày 14-10- 2023 chuyển 150.000.000 đồng và 500.000.000 đồng; ngày 21-10-2022 chuyển 50.000.000 đồng; ngày 04-11-2022 chuyển 450.000.000 đồng và 120.000.000 đồng; ngày 07-11- 2022 chuyển 100.000.000 đồng; ngày 15-11-2022 chuyển 450.000.000 đồng và 340.000.000 đồng; ngày 28-11-2022 chuyển 160.000.000 đồng; ngày 05-12- 2022 chuyển 400.000.000 đồng và 200.000.000 đồng; ngày 08-12-2022 chuyển 3.000.000 đồng; ngày 21-12-2022 chuyển 300.000.000 đồng và 2.700.000 đồng; ngày 29-12-2022 chuyển 120.000.000 đồng; ngày 06-01-2023 chuyển 5.160.000 đồng; ngày 09-01-2023 chuyển 20.000.000 đồng; ngày 02-3-2023 chuyển 15.000.000 đồng và 5.000.000 đồng. Tổng cộng 3.940.860.000 đồng.

Tổng cộng giao tiền mặt và chuyển khoản là 11.540.860.000 đồng.

Các khoản bà H chuyển khoản trả cho chị Liên từ khi ký các giấy nợ nêu trên, gồm: Ngày 14-10-2022 chuyển 150.000.000 đồng; ngày 22-10-2022 chuyển 50.300.000 đồng; ngày 28-10-2022 chuyển 500.000.000 đồng; ngày 08-11-2022 chuyển 300.000.000 đồng và 300.000.000 đồng; ngày 15-11-2022 chuyển 400.000.000 đồng; ngày 16-11-2022 chuyển 302.040.000 đồng; ngày 25-11-2022 chuyển 400.000.000 đồng; ngày 28-11-2022 chuyển 160.000.000 đồng; ngày 01-12-2022 chuyển 200.000.000 đồng; ngày 02-12-2022 chuyển 346.000.000 đồng và 300.000.000 đồng; ngày 02-12-2022 chuyển 3.000.000 đồng và 2.000.000 đồng; ngày 04-12-2022 chuyển 42.000.000 đồng; ngày 07-12-2022 chuyển 50.000.000 đồng; ngày 16-12-2022 chuyển 600.000 đồng; ngày 19-12-2022 chuyển 300.000.000 đồng; ngày 29-12-2022 chuyển 70.000.000 đồng; ngày 04- 01-2023 chuyển 900.000 đồng; ngày 09-01-2023 chuyển 20.000.000 đồng. Tổng cộng bà H đã chuyển vào tài khoản của chị L là 3.896.840.000 đồng.

Sau khi bà H kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm đã đối chiếu lại và có kết quả như trên, chị L chấp nhận.

Trong số tiền bà H chuyển khoản có cả tiền lãi và chuyên trả cho các khoản nợ khác không ghi giấy nợ, trả tiền mua hàng, có một số lần chuyên không ghi lý do nhưng chị L chấp nhận trừ 3.896.840.000 đồng vào nợ vay gốc, không phải trừ 646.000.000 đồng tiền lãi như chị L trình bày trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Như vậy, tính đến ngày 02-3-2023, ngày chấm dứt giao dịch thì bà H còn nợ chị L 7.644.020.000 đồng, không phải là 9.250.000.000 đồng như trong đơn khởi kiện.

Về tiền lãi: Trong giấy vay tiền không ghi lãi suất, hai bên khai không thống nhất nhau về lãi suất, chị L yêu cầu tính theo lãi suất 10%/ năm, tức là 0,83 %/ tháng từ ngày bà H ngưng trả là ngày 09-01-2023 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 05-9-2023 là đúng theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự. Tiền lãi được tính như sau: 7.644.020.000 đồng x 0,83% x 07 tháng 26 ngày = 499.103.545 đồng.

Như vậy tổng số tiền vay gốc và tiền lãi phải trả là 8.143.123.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tính theo các giấy vay tiền và số tiền lãi chị L thừa nhận bà H có trả; tính lãi tròn tháng không tính số ngày lẻ, tuyên tổng số tiền phải trả là 9.338.135.000 đồng là không đúng, làm mất quyền lợi của bị đơn.

Từ những phân tích nêu trên, có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của bà H, sửa bản án sơ thẩm.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà H cho rằng 03 khoản nợ vay do bà Trần Thị H3, chị Vũ Thị P đứng tên cho vay không có thật là không có căn cứ; mâu thuẫn với việc ký nhận nợ của bà H, mâu thuẫn với các chứng từ chuyển khoản qua lại giữa chị L và bà H, mâu thuẫn lời khai thừa nhận nợ của người đại diện theo ủy quyền của bà H trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

[4] Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà H cho rằng trong hồ sơ không có biên bản nghị án là không có căn cứ vì đã có trong hồ sơ vụ án, biên bản nghị án không phải là tài liệu chứng cứ nên Luật sư và các bên đương sự không có quyền sao chụp. Luật sư cho rằng Thẩm phán ra quyết định thu thập chứng cứ cùng ngày với ngày nhận chứng cứ là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là không đúng vì Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định thời hạn này và việc này không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của các bên đương sự. Luật sư cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành đối chất và không công khai chứng cứ là không có căn cứ vì Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhưng bị đơn không đến Tòa án, người đại diện của bị đơn xin vắng mặt nên không tiến hành đối chất và công khai chứng cứ được.

[5] Xét kháng cáo của ông Phan Văn H1 về việc không chấp nhận liên đới trả nợ, thấy rằng:

Việc bà H vay tiền của chị L và nhiều người khác để cho vay đáo hạn ngân hàng và kinh doanh bất động sản diễn ra nhiều năm, ngoài ra tiền vay không dùng vào mục đích nào khác, chính ông H1 thừa nhận mọi việc trong gia đình do bà H quyết định, tuy ông H1 không tham gia giao dịch vay nhưng biết và thừa nhận việc kinh doanh của bà H, trong khoản thời gian bà H vay tiền của chị L và nhiều người khác để cho vay đáo hạn ngân hàng, kinh doanh bất động sản đã làm phát sinh nhiều tài sản là nhà đất, ông H1 và bà H sở hữu chung, có căn cứ chứng minh tiền vay dùng vào mục đích chi tiêu, tạo tài sản chung của vợ chồng nên ông H1 phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các khoản vay do một mình bà H thực hiện theo quy định tại Điều 37 của Luật Hôn nhân và Gia đình, cụ thể là tiền vay của chị L. Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông H1 liên đới trả nợ là có căn cứ, ông H1 kháng cáo cho là nợ riêng của bà H, ông không liên quan là không có căn cứ.

[6] Bà Trần Thị H3 và chị Vũ Thị P xác định, chỉ đứng tên giùm chị L trong giấy vay tiền, tiền cho vay là của chị L. Bà H3, chị P không tranh chấp, không yêu cầu gì nên ghi nhận.

[7] Đề nghị của Vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T tham gia phiên tòa là có căn cứ.

[8] Do sửa bản án sơ thẩm nên phải sửa phần án phí sơ thẩm như sau:

Yêu cầu khởi kiện của chị L được chấp nhận một phần; phần không được chấp nhận có giá trị 460.877 000 đồng (9.250.000.000 đồng - 646.000.000 đồng thừa nhận bà H đã trả tiền lãi - 8.143.123.000 đồng được Tòa án chấp nhận = 460.877.000 đồng) án phí phải chịu là 20.000.000 đồng + 4% phần giá trị tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng = 20.000.000 đồng + 4% của 60.877.000 đồng = 22.435.000 đồng.

Tổng số tiền bà H, ông H3 phải trả là 8.143.123.000 đồng, án phí phải chịu là 112.000.000 đồng + 0,1% của phần vượt quá 4.000.000.000 đồng = 112.000.000 đồng + 0,1% của 4.143.123.000 đồng = 112.000.000 đồng + 4.143.123 đồng = 116.143.123 đồng.

[9] Về án phí phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận một phần, phải sửa bản án sơ thẩm nên theo quy định tại Điều 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bà H không phải chịu; kháng cáo của ông H3 không được chấp nhận nên ông H3 phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 466, Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự; Điều 37 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 26, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phan Văn H1.

2. Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Đỗ Thị H.

3. Sửa Bản án Dân sự sơ thẩm số: 118/2023/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2023, của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T:

3.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị L đối với bà Đỗ Thị H, ông Phan Văn H1.

Buộc bà Đỗ Thị H, ông Phan Văn H1 phải liên đới trả cho chị Vũ Thị L 7.644.020.000 đồng tiền vay gốc và 499.103.545 đồng tiền lãi, tổng cộng là 8.143.123.000 đồng (tám tỷ một trăm bốn mươi ba triệu một trăm hai mươi ba nghìn) đồng theo các giấy vay tiền, gồm: Giấy vay ngày 27-10-2022, bà Trần Thị H3 đứng tên cho vay; Giấy vay ngày 26-10-2022 (âm lịch), chị Vũ Thị P đứng tên cho vay; Giấy vay ngày 27-10-2022 (âm lịch), chị Vũ Thị P đứng tên cho vay; Giấy vay ngày 05-12-2022, bà H trực tiếp cho vay.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án sơ thẩm, nếu bà H, ông H3 chưa giao trả đủ số tiền như đã nêu trên thì hàng tháng bà H, ông H3 còn phải trả cho chị L tiền lãi do chậm thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3.2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị L đối với bà Đỗ Thị H, ông Phan Văn H1 với số tiền 460.877.000 đồng.

3.3. Ghi nhận bà Trần Thị H3 và chị Vũ Thị P xác định chỉ đứng tên giùm chị L trong giấy vay tiền, tiền cho vay là của chị L, bà H3, chị P không tranh chấp, không yêu cầu gì.

3.4. Về án phí sơ thẩm:

- Bà Đỗ Thị H, ông Phan Văn H1 phải 116.143.123 đồng, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm bà H đã nộp theo Biên lai thu số: 0008547 ngày 18-9-2023, số tiền còn lại phải nộp là 115.843.123 (một trăm mười lăm triệu tám trăm bốn mươi ba nghìn một trăm hai mươi ba) đồng.

- Chị Vũ Thị L phải chịu 22.435.000 (hai mươi hai triệu bốn trăm ba mươi lăm nghìn) đồng, được trừ vào 58.552.700 (năm mươi tám triệu năm trăm năm mươi hai nghìn bảy trăm) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu số: 0008319 ngày 20-6-2023, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh T.

Hoàn trả cho chị Vũ Thị L 36.087.700 (ba mươi sáu triệu không trăm tám mươi bảy nghìn bảy trăm) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu số: 0008319 ngày 20-6-2023 và 14.299.000 (mười bốn triệu hai trăm chín mươi chín nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu số: 0008041 ngày 30-3-2023, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh T.

4. Về án phí phúc thẩm:

- Bà Đỗ Thị H không phải chịu.

- Ông Phan Văn H1 phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số: 0008546 ngày 18-9-2023, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh T.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 08/2024/DS-PT

Số hiệu:08/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về