TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 07/2022/DS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01/2022/TLST-DS ngày 22 tháng 02 năm 2022 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2022/QĐST-DS ngày 08 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Địa chỉ: Số 2 Láng H, phường Th, quận B, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn Th - Chức vụ: Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đinh Xuân L - Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
(Theo Quyết định ủy quyền số: 2965/QĐ-NHNo-PC, ngày 27/12/2019 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam về việc Ủy quyền thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng và thi hành án).
Người nhận ủy quyền lại: Ông Nguyễn Văn Ch - Chức vụ: Phó Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
(Văn bản ủy quyền ngày 15/9/2022).
Địa chỉ: Tổ dân phố H, thị trấn D, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
2. Bị đơn: Ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2.
Đều có địa chỉ: Thôn Làng L, xã Sơn H, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Người phiên dịch: Bà Đinh Thị Huệ - Cán bộ hưu trí thị trấn D.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 18/01/2022, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa của đại diện nguyên đơn ông Nguyễn Văn Ch trình bày:
Ngày 21/12/2018, vợ chồng ông Đinh Văn X và bà Đinh Thị H cùng các con là anh Đinh Văn Nh1, chị Đinh Thị Nh2 có vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi (gọi tắt: Ngân hàng) với số tiền 300.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số: 4505-LAV-201803638, lãi suất: 9%/năm, thời hạn vay: 12 tháng. Nghĩa vụ của hợp đồng được đảm bảo bằng giá trị tài sản bảo đảm bằng hợp đồng bảo đảm số: BZ 6269 ngày 19/12/2018. Sau khi hợp đồng trên được thực hiện xong, vợ chồng ông Đinh Văn X và bà Đinh Thị H cùng các con có nhu cầu vay tiếp thì ngày 19 tháng 3 năm 2020 vợ chồng ông Đinh Văn X và bà Đinh Thị H cùng các con là anh Đinh Văn Nh1, chị Đinh Thị Nh2 tiếp tục vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi với số tiền 300.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số: 4505- LAV-202000475, đến hạn trả lãi, gốc vào ngày 19/3/2021, lãi suất: 9,75%/năm, thời hạn vay: 12 tháng. Hợp đồng tín dụng này cũng được ông Đinh Văn X, bà Đinh Thị H, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 tiếp tục kế tiếp dùng tài sản để đảm bảo cho khoản vay là quyền sử dụng đất số HD 278491; số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số “CH” 00002; Thửa đất số....; Tờ bản đồ số....; Diện tích 632m2; Địa chỉ thửa đất: Thôn L, xã Sơn H, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 29/12/2010 cho hộ ông Đinh Văn X và vợ bà Đinh Thị H trú tại thôn L, xã Sơn H, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi theo Hợp đồng thế chấp số: BZ 6269 ngày 19/12/2018 tại Ủy ban nhân dân xã Sơn Hải, huyện S.
Quá trình vay vốn thì ông X, anh Nh1 và chị Nh2 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ (riêng bà Đinh Thị H đã mất ngày 17/4/2020) theo hợp đồng mặc dù bên Ngân hàng đã nhiều lần làm việc yêu cầu trả nợ.
Tính đến ngày 26/9/2022, ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 nợ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi theo Hợp đồng tín dụng số 4505-LAV-202000475 với tổng số tiền là 396.084.247 đồng (trong đó, nợ gốc: 300.000.000 đồng; lãi trong hạn:
72.806.164 đồng; lãi quá hạn: 22.278.082 đồng).
Để đảm bảo thu hồi vốn cho Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông X, anh Nh1 và chị Nh2 phải hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi số nợ trên. Buộc ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 tiếp tục trả nợ số tiền nợ lãi tính theo lãi suất quy định tại Hợp đồng tín dụng số: 4505- LAV-202000475 ngày 19/3/2020 kể từ ngày 18/01/2022 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
Trường hợp ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 không thực hiện việc trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ thì Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi đề nghị Tòa án tuyên phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ, cụ thể: quyền sử dụng đất số BD 278491; số vào sổ “CH” 00002; Thửa đất số....; Tờ bản đồ số....; Diện tích 632m2; Địa chỉ thửa đất: Thôn Làng L, xã Sơn H, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 29/12/2010 cho hộ ông Đinh Văn X và vợ bà Đinh Thị H trú tại thôn Làng L, xã Sơn H, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
Trường hợp số tiền phát mãi, thu hồi tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi thì ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi trả xong toàn bộ khoản nợ. Ngoài ra không ý kiến gì thêm.
Đối với bị đơn ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 không đến Tòa án để trình bày ý kiến. Do đó, trong hồ sơ không thể hiện ý kiến của bị đơn ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa sơ thẩm:
- Việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã xác định quan hệ tranh chấp phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đại diện nguyên đơn đúng theo quy định của pháp luật. Đối với các bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
- Về nội dung: Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy, ngày 21/12/2018, vợ chồng ông Đinh Văn X và bà Đinh Thị H cùng các con là anh Đinh Văn Nh1, chị Đinh Thị Nh2 có vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi số tiền 300.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số: 4505-LAV-201803638, lãi suất: 9%/năm, thời hạn vay: 12 tháng. Nghĩa vụ của hợp đồng được đảm bảo bằng giá trị tài sản bảo đảm bằng hợp đồng bảo đảm số: BZ 6269 ngày 19/12/2018. Sau khi hợp đồng trên được thực hiện xong, ngày 19 tháng 3 năm 2020 vợ chồng ông Đinh Văn X và bà Đinh Thị H cùng các con là anh Đinh Văn Nh1, chị Đinh Thị Nh2 tiếp tục vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi với số tiền 300.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số: 4505-LAV-202000475, đến hạn trả lãi, gốc vào ngày 19/3/2021, lãi suất: 9,75%/năm, thời hạn vay: 12 tháng. Hợp đồng tín dụng này cũng được ông Đinh Văn X, bà Đinh Thị H, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 tiếp tục kế tiếp dùng tài sản để đảm bảo cho khoản vay là quyền sử dụng đất số: HD 278491; số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số “CH” 00002; Thửa đất số....; Tờ bản đồ số....; Diện tích 632m2; Địa chỉ thửa đất: Thôn Làng L, xã Sơn H, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 29/12/2010 cho hộ ông Đinh Văn X và vợ bà Đinh Thị H trú tại thôn Làng L, xã Sơn H, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi theo Hợp đồng thế chấp số: BZ 6269 ngày 19/12/2018 tại Ủy ban nhân dân xã Sơn H, huyện S.
Quá trình vay vốn thì ông X, anh Nh1 và chị Nh2 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ (riêng bà Đinh Thị H đã mất ngày 17/4/2020) theo hợp đồng mặc dù bên Ngân hàng đã nhiều lần làm việc yêu cầu trả nợ.
Nay đại diện nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi số tiền cả gốc và lãi là 396.084.247 đồng là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của đại diện nguyên đơn, buộc ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi số tiền 396.084.247 đồng (trong đó, nợ gốc:
300.000.000 đồng; lãi trong hạn: 72.806.164 đồng; lãi quá hạn: 22.278.082 đồng) phù hợp với Điều 466 Bộ luật Dân sự.
Về chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ thẩm đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành niêm yết các thủ tục tố tụng theo đúng quy định pháp luật cho bị đơn ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 nhưng ông X, anh Nh1 và chị Nh2 không đến. Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận thấy việc Tòa án tiến hành thủ tục niêm yết các văn bản tố tụng là phù hợp, đảm bảo theo đúng quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, các bị đơn ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 tiếp tục vắng mặt không rõ lý do mặt dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2.
[2] Thẩm quyền thụ lý, giải quyết: Theo đơn khởi kiện ngày 18/01/2022 và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp về hợp đồng dân sự” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án nhân dân huyện S thụ lý giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Xác định quan hệ pháp luật: Qua xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy, hai bên thực hiện hợp đồng vay tài sản hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội nên Tòa án công nhận hợp đồng vay tài sản giữa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi với vợ chồng ông Đinh Văn X và bà Đinh Thị H cùng các con là anh Đinh Văn Nh1, chị Đinh Thị Nh2 là có thật và hợp pháp. Hội đồng xét xử xác định, đây là quan hệ tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” được quy định tại Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự, đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh.
[4] Xét yêu cầu của đại diện nguyên đơn buộc ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi tổng số tiền 396.084.247 đồng (trong đó, nợ gốc: 300.000.000 đồng; lãi trong hạn: 72.806.164 đồng; lãi quá hạn: 22.278.082 đồng), Hội đồng xét xử nhận thấy: Vào ngày 19/3/2020 giữa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi (bên cho vay) và vợ chồng ông Đinh Văn X, bà Đinh Thị H cùng các con là anh Đinh Văn Nh1, chị Đinh Thị Nh2 (bên vay) có ký kết hợp đồng vay tài sản (Hợp đồng tín dụng số: 4505-LAV-202000475) số tiền là 300.000.000 đồng; đến hạn trả lãi, gốc vào ngày 19/3/2021, lãi suất: 9,75%/năm, thời hạn vay: 12 tháng là có thật.
Để đảm bảo cho khoản vay, ông Đinh Văn X, bà Đinh Thị H, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 tiếp tục kế tiếp thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất số BD 278491; số vào sổ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số “CH” 00002; Thửa đất số....; Tờ bản đồ số....: diện tích 632m2; Địa chỉ thửa đất: Thôn Làng L, xã Sơn H, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 29/12/2010 cho hộ ông Đinh Văn X và vợ bà Đinh Thị H trú tại thôn Làng L, xã Sơn H, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi theo Hợp đồng thế chấp số: BZ 6269 ngày 19/12/2018 tại Ủy ban nhân dân xã Sơn H, huyện S.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện hợp đồng thì ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 (bà Đinh Thị H đã mất ngày 19/4/2020) không thực hiện trả nợ vay như cam kết. Mặc dù, Ngân hàng đã nhiều lần đến làm việc đòi nợ thì ông X, anh Nh1 và chị Nh2 bỏ địa phương đi làm ăn xa.
Nay đại diện nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi số tiền cả gốc và lãi là 396.084.247 đồng là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đại diện nguyên đơn, buộc ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi số tiền 396.084.247 đồng (trong đó, nợ gốc: 300.000.000 đồng; lãi trong hạn: 72.806.164 đồng; lãi quá hạn: 22.278.082 đồng) là phù hợp với Điều 466 Bộ luật Dân sự.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ 2.000.000 đồng. Do toàn bộ yêu cầu của các bị đơn không được Tòa án chấp nhận nên các bị đơn phải chịu toàn bộ chi phí này là phù hợp khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 161; khoản 1 Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[6] Về án phí: Buộc ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng ân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 280, Điều 288, Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự; Điều 91, Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi, buộc ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi số tiền 396.084.247 đồng (Ba trăm chín mươi sáu triệu không trăm tám mươi bốn nghìn hai trăm bốn mươi bảy đồng), (trong đó, nợ gốc: 300.000.000 đồng; lãi trong hạn:
72.806.164 đồng; lãi quá hạn: 22.278.082 đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 27/9/2022 theo hợp đồng tín dụng số 4505-LAV-202000475 ngày 19/3/2020.
Trường hợp ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 không thực hiện việc trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ thì Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện S phát mãi tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất số BD 278491; số vào sổ “CH” 00002; Thửa đất số....; Tờ bản đồ số....; Diện tích 632m2; Địa chỉ thửa đất: Thôn Làng L, xã Sơn H, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 29/12/2010 cho hộ ông Đinh Văn X và vợ bà Đinh Thị H trú tại thôn Làng L, xã Sơn H, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
Trường hợp số tiền phát mãi, thu hồi tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi thì ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi trả xong toàn bộ khoản nợ.
2. Buộc ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 phải hoàn trả 2.000.000 đồng về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Về án phí: Buộc ông Đinh Văn X, anh Đinh Văn Nh1 và chị Đinh Thị Nh2 phải chịu 19.804.212 đồng (lấy số tròn) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại 9.147.000 đồng tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số: 0000746 ngày 22/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 07/2022/DS-ST
Số hiệu: | 07/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Hà - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về