Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 04/2023/DS-PT

A ÁN NHÂN DÂN TỈNH BC NINH

BẢN ÁN 04/2023/DS-PT NGÀY 28/11/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số: 11/2023/TLPT- DS ngày 19/10/2023 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do bản án dân sự sơ thẩm số: 27/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh B bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 01/2023/QĐ-PT ngày 01/11/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh B giữa các đương sự:

- Ngun đơn: Anh Nguyễn Cao L, sinh năm 1994 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, thị xã T, tỉnh B.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, thị xã T, tỉnh B.

- Người có quyền li, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1974 (vắng mặt).

2. Cụ Nguyễn Thị X, sinh năm 1940 (vắng mặt).

3. Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1956 (có mặt).

4. Chị Nguyễn Thị Ổ, sinh năm 1976 (vắng mặt).

5. Chị Nguyễn Thị N1, sinh năm 1980 (vắng mặt).

6. Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1985 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, thị xã T, tỉnh B.

- Người làm chứng: Anh Đỗ Đình K, sinh năm 1989 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, thị xã T, tỉnh B.

Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì vụ án có nội dung như sau:

Nguyên đơn là anh Nguyễn Cao L đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Bố đẻ anh là ông Nguyễn Cao N2 và ông Nguyễn Văn T là anh em trong họ. Ngày 20/02/2022, bố đẻ anh là ông Nguyễn Cao N2 có cho ông Nguyễn Văn T vay số tiền 250.000.000đ, thời hạn vay là 01 năm, vay không có lãi suất. Trước khi chết ba tháng bố anh đã bàn giao toàn bộ giấy tờ nhà đất và các khoản nợ khác bao gồm cả khoản nợ mà bố anh cho ông T vay trước sự chứng kiến của toàn bộ thành viên trong gia đình. Ngày 12/10/2022, bố anh chết. Sau khi bố anh chết 21 ngày thì anh có đến nhà ông T nói chuyện liên quan đến số nợ này thì ông T nói đã trả nợ cho bố anh rồi. Khi ông T nói vậy thì anh có nói là trước khi bố anh chết thì bố anh có nhắc đến khoản nợ này thì ông T cũng chỉ nói với anh là đã trả nợ cho bố anh rồi. Đến nay, thời hạn vay đã hết, anh đã đòi ông T nhiều lần nhưng ông T không trả. Do đó, anh khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông T có nghĩa vụ trả cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất của bố anh số tiền 250.000.000đ.

Bị đơn là ông Nguyễn Văn T trình bày: Ông và ông Nguyễn Cao N2 có họ hàng thân thiết với nhau. Ông đã rất nhiều lần vay tiền của ông N2. Tất cả những lần vay tiền ông đều thanh toán sòng phẳng với ông N2.

Ngày 20/02/2022, ông có vay ông N2 số tiền 250.000.000đ. Khi vay giữa ông và ông N2 có viết giấy biên nhận vay tiền với thời hạn vay là 01 năm, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 4.200.000đ/tháng. Sau khi vay, hàng tháng ông đều trả lãi cho ông N2 đúng hạn. Khi vay, ông N2 có giao hẹn với ông khi nào ông N2 cần thì ông phải trả cho ông N2. Đến giữa tháng 7 năm 2022, khi ông sang trả tiền lãi thì ông N2 có yêu cầu ông tháng sau phải trả toàn bộ số tiền vay cho ông N2. Trưa ngày 19/8/2022 (âm lịch), ông cùng anh Đỗ Đình K là cháu ruột của ông cùng ông sang nhà ông N2 trả tiền. Trước mặt anh K ông đã đưa cho ông N2 250.000.000đ tiền gốc và 4.200.000đ tiền lãi. Tổng số tiền ông trả cho ông N2 là 254.200.000đ. Khi ông đưa tiền cho ông N2 thì ông N2 đã đếm đủ số tiền sau đó ông và anh K mới về. Trước khi về ông có nói với ông N2 phải xóa giấy vay nợ đi. Ông N2 cũng nói lại sẽ xóa luôn. Vì tin tưởng nên ông không kiểm tra lại. Do có quan hệ họ hàng và cũng do ông đã nhiều lần vay của ông N2 thì ông N2 đều xóa hoặc gạch giấy đi nên ông cũng không hỏi lại.

Trước khi ông N2 chết thì ông và ông N2 vẫn có m ối quan hệ bình thường. Sau khi ông N2 chết, vợ con ông N2 và ông vẫn có quan hệ bình thường, không có mâu thuẫn gì. Một tuần sau khi ông N2 chết thì anh Nguyên Cao L là con trai ông N2 đến gặp ông và nói: “Bác mà trả tiền bố cháu rồi thì sang nhà cháu thắp hương cho bố cháu”. Sau đó anh L lại nói: “Nhà cháu đang đông người, mai bác sang”. Ông đã nghi ngờ và trưa hôm sau ông đã sang ngay nhà anh L thắp hương cho ông N2. Khi thắp hương thì cả anh L và vợ ông N2 đều có mặt chứng kiến. Sau đó, quan hệ giữa ông và gia đình ông N2 đều không có vấn đề gì cho đến khi ông nhận được thông báo thụ lý của Tòa án thì ông mới biết việc anh L đã khởi kiện ông. Ông rất bất ngờ và bức xúc bởi ông đã thanh toán xong cho ông N2 số tiền 250.000.000đ và xác định không còn nợ ông N2 đồng nào. Ông đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Cao L.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị N trình bày: Bà là vợ ông T, trong gia đình bà ông T là người nắm và có toàn quyền quyết định mọi vấn đề trong gia đình. Bà không biết ông T vay tiền của ông N2 từ bao giờ và không biết ông T đã vay bao nhiêu tiền của ông N2. Bà chỉ biết việc ông T vay tiền của ông N2 sau khi ông N2 chết được khoảng một tuần thì con ông N2 điện thoại cho ông T đòi tiền. Sau khi biết sự việc thì bà có hỏi ông T, ông T có nói ông có vay ông N2 250.000.000đ hộ anh Đỗ Đình K là người cùng thôn với vợ chồng ông bà và là con của chị gái ông T. Ông T nói số tiền này ông T và anh K đã mang đến tận nhà trả cho ông N2 vào ngày 19/8/2022 âm lịch. Nay anh L khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông T phải trả cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất của ông N2 số tiền 250.000.000đ bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh L.

Người làm chứng là anh Đỗ Đình K trình bày: Anh là cháu ruột ông T. Anh và anh L là anh em trong họ nhưng họ xa. Năm 2022, do thiếu tiền để trả tiền xây nhà nên anh có nhờ ông T vay tiền hộ anh. Ngày 20/02/2022, ông T có đưa cho anh vay số tiền 250.000.000đ, hai bên thỏa thuận lãi suất là 2%/tháng tương đương số tiền lãi là 5.000.000đ/tháng nhưng do là người trong gia đình nên chỉ lấy 4.200.000đ. Khi ông T đưa tiền cho anh thì ông T có nói số tiền này ông T vay hộ là vay của ông Nguyễn Cao N2 là người cùng thôn. Khi hỏi vay và nhận tiền của ông T đều do anh và hàng tháng trả lãi anh đều trả đầy đủ cho ông T. Ngày 19/8/2022 âm lịch, anh đến nhà ông T trả số tiền 250.000.000đ thì ông T có rủ anh đến nhà ông N2 để trả nợ. Tại nhà ông N2, ông T đã trả cho ông N2 số tiền 250.000.000đ tiền gốc và 4.200.000đ tiền lãi. Khi ông T trả tiền cho ông N2 anh thấy hai bên không viết giấy tờ gì. Ông T có nói với ông N2 là xóa giấy nợ đi thì ông N2 có nói là sổ để trong két và sẽ xóa nợ sau. Anh xác định ngày ông T trả tiền cho ông N2 thì chỉ có ba người là anh, ông T và ông N2, ngoài ra không còn ai có mặt làm chứng cho việc giao nhận tiền.

Nay anh L đề nghị Tòa án buộc ông T có nghĩa vụ trả cho hàng thừa kế của ông N2 số tiền 250.000.000đ quan điểm của anh là ông T đã trả cho ông N2 số tiền 250.000.000đ và 4.200.000đ tiền lãi nên anh đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh L.

Từ những nội dung trên bản án sơ thẩm đã căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 102; 144; 147; 161; 162; 227; 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 288; 429; 463; 466; 649; 650; 651 Bộ luật dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Cao L.

2. Buộc ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị N có nghĩa vụ liên đới phải trả cho cụ Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị Y, chị Nguyễn Thị Ổ, chị Nguyễn Thị N1, chị Nguyễn Thị M và anh Nguyễn Cao L số tiền nợ gốc là 250.000.000đ.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên xử về chi phí giám định, nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xử sơ thẩm, ngày 05/10/2023, bị đơn là Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Tuy nhiên, các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Cụ thể, ông T đồng ý trả cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất của ông N2 số tiền 150.000.000đ; phía nguyên đơn là anh L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Y đồng ý để ông T trả số tiền 150.000.000đ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý phúc thẩm cho đến phần tranh luận tại phiên tòa là đảm bảo theo đúng trình tự, quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn T nộp trong hạn luật định, đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng nên được xem xét giải quyết theo trình tự xét xử phúc thẩm.

[2]. Về nội dung: Ngày 20/02/2022, ông Nguyễn Cao N2 có cho ông Nguyễn Văn T vay số tiền 250.000.000đ. Khi vay giữa hai bên có viết giấy biên nhận vay tiền với thời hạn vay là một năm và không có lãi suất. Đến ngày 12/10/2022, ông Nguyễn Cao N2 chết. Những người ở hàng thừa kế thứ nhất của ông N2 là cụ X, bà Y, chị Ổ, chị N1, chị M và anh L do anh L đại diện khởi kiện đề nghị ông T trả cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất của ông N2 số tiền 250.000.000d theo giấy vay tiền ngày 20/02/2022 giữa ông N2 và ông T. Bản án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh L. Buộc ông T và bà N có nghĩa vụ liên đới trả cho cụ X, bà Y, chị Ổ, chị N1, chị M và anh L số tiền 250.000.000đ.

Sau khi bản án sơ thẩm xử, ông T kháng cáo toàn bộ nội dung bản án. Xét kháng cáo của ông T Hội đồng xét xử thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Cụ thể, ông Nguyên Văn T là bị đơn đồng ý trả cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất của ông N2 số tiền 150.000.000d. Xét thấy, sự thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên cần chấp nhận và sửa bản án sơ thẩm.

Bà N là vợ ông T trình bày: Bà không biết việc ông T vay tiền của ông N2, chỉ đến khi ông N2 chết được một tuần thì bà mới biết việc này. Ông T xác nhận có vay tiền nhưng lại trình bày là vay hộ cho cháu là anh K để làm nhà. Như vậy, nếu có việc ông T vay tiền thì cũng không phải sử dụng để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Hơn nửa, trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh L chỉ đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông T trả cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất của ông N2 số tiền mà ông T đã vay của ông N2. Do đó, bản án sơ thẩm buộc bà N có nghĩa vụ liên đới trả cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất của ông N2 số tiền 250.000.000đ là không đủ căn cứ. Do vậy, không buộc bà N phải có trách nhiệm liên đới trả số tiền cùng ông T.

Ông Nguyễn Văn T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308; Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự sửa bản án sơ thẩm xử.

Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 102; 144; 147; 161; 162; 227; 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 288; 429; 463; 466; 649; 650; 651 Bộ luật dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Cao L.

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn T có nghĩa vụ trả cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất của ông N2 là cụ Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị Y, chị Nguyễn Thị Ổ, chị Nguyễn Thị N1, chị Nguyễn Thị M và anh Nguyễn Cao L số tiền 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về chi phí giám định: Ông Nguyễn Văn T phải chịu 5.000.000đ chi phí giám định. Xác nhận ông T đã nộp đủ số tiền này.

4. Về án phí: Ông Nguyễn Văn T phải chịu 3.750.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Nguyễn Văn T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Xác nhận ông T đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006141 ngày 05/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã T.

Anh Nguyễn Cao L, chị Nguyễn Thị Ổ, chị Nguyễn Thị N1, chị Nguyễn Thị Minh cụ Nguyễn Thị X1, bà Nguyễn Thị Y phải chịu 3.750.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 04/2023/DS-PT

Số hiệu:04/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về