Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 02/2022/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

 BẢN ÁN 02/2022/DS-PT NGÀY 04/01/2022 VÊ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong các ngày 11 tháng 11; ngày 07 tháng 12 năm 2021 và ngày 04 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 126/2021/TLPT-DS ngày 20 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 55/2021/DS-ST ngày 30 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:139/2021/QĐ-PT ngày 10tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Bích P sinh năm 1960 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện T, tỉnh C.

- Bị đơn: Bà Huỳnh Thị D sinh năm 1964 (có mặt). Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện T, tỉnh C ..

-Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Đinh Thanh Triển - Chi nhánh văn phòng luật sư Thịnh Quốc tại Cà Mau - Thuộc đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Người kháng cáo: Bà Huỳnh Thị D, là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn bà Nguyễn Bích P trình bày: Vào ngày 28/7/2014 tôi có cho bà D vay số vàng là 22 chỉ vàng 24k, lãi xuất tự thỏa thuận, quá trình vay không đóng lãi. Khi vay không có làm biên nhận nhưng con của D (tên Văn) có viết vào sổ tôi là 22 chỉ vàng 24k. Hiện nay chưa trả vốn, nay tôi yêu cầu bà D phải trả 22 chỉ vàng 24k.

Tại bản án số: 165/2020/DS-ST ngày 29/09/2020 tôi có kiện bà D số vàng là 114 chỉ vàng 24k, nhưng bà D không thừa nhận cho rằng không phải chữ viết của bà D, do chữ viết trong sổ là của Văn (con bà D) nên tôi đã khởi kiện ông Văn, sau đó ông Văn thừa nhận là có viết vào sổ tôi thiếu số vàng là 22 chỉ vàng 24k, nhưng số vàng đó là của bà D vay, ông Văn là người viết dùm, nên tôi rút đơn kiện lại, tiếp tục khởi kiện bà D trong vụ án này.

- Bị đơn Huỳnh Thị D trình bày: Vào năm 1997 tôi có vay của bà P là 3 chỉ vàng 24k, lãi xuất 8 phân trên 1 năm, việc vay có viết vào sổ của bà P, quá trình vay có đóng lãi được vài lần, nếu không có thì bà P nhập vào vốn, đến ngày 28/7/2014 tôi có trả 3 chỉ vàng góc, còn phần lãi là 22 chỉ vàng 24k, sau đó con tôi là Văn có ghi vào sổ của chị P là còn thiếu 22 chỉ vàng 24k phần lãi. Vào năm 2015 tôi có vô 6 chân hụi mùa mỗi chân là 5.000.000 đồng, tôi hốt đầu hết 6 chân trừ ngang 22 chỉ vàng 24k đã thiếu và sau đó có hỏi thêm 9 chỉ bằng 24k lãi và vốn là 13 chỉ 24k đã trã xong, như vậy tổng số tôi hốt 6 chân hụi mùa trả cho bà P là 35 chỉ vàng 24k. Trong đó có 22 chỉ vàng 24k phần lãi và còn lại số tiền 21.000.000 đồng không giao hụi cho tôi mà để đóng tiền lãi. Nay tôi xác định đã trả xong số vàng này không còn nợ bà P nữa. Tại bản án số 165/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án huyện Trần Văn Thời, buộc tôi trả 81 chỉ vàng 24k cho bà P là không có 22 chỉ vàng này, vì tôi đã trả cho bà P trước đó.

Tại biên bản hòa giải ngày 17/12/2020 của Tòa án huyện Trần Văn Thời, đối với ông Nguyễn Thanh Văn thừa nhận chữ viết có nội dung “ ngày 28/7/2014: 2,2 cây vàng” là chữ của Văn, số vàng 2,2 cây là vàng lãi, nhưng do bà D kêu Văn ghi vào sổ bà P, ghi thay bà D, bản thân Văn không có vay vàng của bà P.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 55/2021/DS-ST ngày 30 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời quyết định:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Buộc bà Huỳnh Thị D phải trả cho bà Nguyễn Bích P số vàng là 22 chỉ vàng 24k.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 05/4/2021, bà Huỳnh Thị D có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Bích P.

Phần tranh luận tại phiên toà: bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn tranh luận: số vàng 22 chỉ bà D đã trả xong cho bà P trong 35 chỉ vàng do bà D hốt hụi nên kính đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà D, sửa án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà P.

Bà P tranh luận: khi cho vay thì có theo dõi sổ, khi trả xong thì xóa sổ, đối với 22 chỉ vàng 24k bà D vay nhưng chưa xóa sổ do bà D chưa trả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Nội dung vụ án bị đơn thừa nhận có nợ nguyên đơn số vàng 22 chỉ vàng 24k và đã trả rồi nhưng sổ theo dõi của nguyên đơn vẫn còn ghi nên bị đơn không lý giải được vì sao chưa xóa sổ theo dõi nên kháng cáo là không có căn cứ đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bà P và bà D có thỏa thuận cho vay tài sản là 22 chỉ vàng 24k, Bà P xác định bà D chưa trả số vàng trên nên chưa xóa sổ theo dõi, bà D cho rằng đã trả xong nhưng do bà P hứa tự xóa sổ nên bà tinh theo. Án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà P nên bà D kháng cáo.

[2] Xét đơn kháng cáo của bà D, Hội đồng xét xử xét thấy: Giao dịch vay tài sản giữa các đương sự không thể hiện biên nhận vay nhưng tại sổ theo dõi của bà P có ghi 2,2 cây vàng do Văn là con bà D trực tiếp ghi vào sổ của bà P là thực tế các đương sự đều thừa nhận.

[3] Đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ thể hiện: bà P cho bà D vay vàng rất nhiều lần và được ghi vào sổ theo dõi của bà P, bà D thừa nhận vào ngày 28/7/2014, bà D còn nợ bà P 22 chỉ vàng 24k, có ghi vào sổ theo dõi của nguyên đơn nhưng cho rằng đây là vàng lãi và đã trả xong bằng việc tham gia 06 chân hụi mùa và để cho bà P hốt hụi để trừ vào 35 chỉ vàng trong đó có 22 chỉ vàng bà Phương đang yêu cầu.

[3.1] Bà P thừa nhận có hốt 6 chân hụi mùa của bà D với số tiền quy đổi ra và trừ vào 35 chỉ vàng bà D đã thiếu, cụ thể ngày 28/12/2014 –5 chỉ, 28/12/2014 – 4 chỉ và thùy 1 chỉ, 29/11/2014 – 9 chỉ, 29/11/2014 – 9 chỉ, 27/4/2015 – 2 chỉ, 29/5/2015 – 3 chỉ, 01/6/20 15 – 3 chỉ. Nhưng bà D thừa nhận trong các ngày bà P trình bày thì bà D chỉ nợ bà P các ngày 28/12/2014 –4 chỉ, 29/11/2014 – 9 chỉ, 27/4/2015 – 2 chỉ, 29/5/2015 – 3 chỉ, bà P không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh việc bà D nợ số vàng 35 chỉ trên vì tất cả chữ ký và chữ viết trong sổ theo dõi là của bà P.

[3.2] Ngoài các lần vay trên bà D còn nợ các khoản vàng vay khác và đã được giải quyết tại bản án số: 165/2020/DS-ST ngày 29/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, xác định bà D có nợ bà P tổng số vàng là 86 chỉ. (bà P đồng ý cho bà D 5 chỉ, yêu cầu bà D thanh toán 81 chỉ) trong số 86 chỉ vàng trên thì có 12 chỉ vàng (ngày 29/5/2015 – 3 chỉ và ngày 29/11/2014 – 9 chỉ) đã được bà P xác định là trừ trong 35 chỉ vàng tiền hốt hụi. Tại phiên tòa phúc thẩm bà P không lý giải được vì sao có sự trùng lấp hai lần như trên.

[3.3] Như vậy số tiền bà P hốt hụi để trừ vào 35 chỉ vàng nhưng bà P chỉ chứng minh được đã trừ vào số vàng là 06 chỉ (18 chỉ vàng bà D thừa nhận còn nợ nhưng bà P đã yêu cầu 12 chỉ vàng tại bản án số 165/2020/DSST ngày 29/9/2020) còn lại 29 chỉ vàng bà P trừ vào khoản vàng nào bà P không chứng minh được, bà D cho rằng đã trừ vào số vàng nợ ngày 28/7/2014, số vàng là 22 chỉ vàng 24k nhưng do tinh tưởng nên không xóa sổ là có căn cứ. Do đó có đủ cơ sở để xác định số vàng 22 chỉ bà P yêu cầu đã được thanh toán xong bằng 6 chân hụi mùa nên kháng cáo của bà D và đề nghị của luật sư là có cơ sở được chấp nhận.

[4] Từ những phân tích trên, chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà D, sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, không chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau.

[5] Về án phí:

[5.1]Án phí dân sự sơ thẩm bà P phải chịu trên số vàng bà P yêu cầu không được chấp nhận. Do bà P là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên bà P được miễn toàn bộ.

[5.2] Án phí phúc thẩm: bà D không phải chịu theo quy định, đã dự nộp được nhận lại.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

Chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Huỳnh Thị D Sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 55/2021/DS-ST ngày 30 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.

Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Bích P về việc yêu cầu bà Huỳnh Thị D có nghĩa vụ thanh toán 22 chỉ vàng 24k.

Án phí sơ thẩm dân sự có giá ngạch: bà Nguyễn Bích P được miễn toàn bộ.

Án phí phúc thẩm: Bà Huỳnh Thị D không phải chịu, ngày 08/4/2021, bà D có nộp tạm ứng số tiền 300.000 đồng theo biên lai số 0004050 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được nhận lại.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 02/2022/DS-PT

Số hiệu:02/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về