Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng ủy quyền số 132/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUN NINH KIU, THÀNH PH CN THƠ

BẢN ÁN 132/2023/DS-ST NGÀY 06/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN, HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN

Trong ngày 30/6/2023 và ngày 06/7/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 99/2023/TLST-DS ngày 01 tháng 3 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 388/2023/QĐXX-ST ngày 13 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1/ Ông Võ Chí H, sinh năm: 1983 (có mặt) Địa chỉ: Ấp A, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

2/ Bà Nguyễn Lương Mỹ L, sinh năm: 1986 (có mặt) Địa chỉ: Khu V L, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ.

Cùng chỗ ở hiện nay: 173A6/15 Khu vực 1, P. A, Q. N, thành phố Cần Thơ.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm: 1974 Địa chỉ: Số A, khu V, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo ủy quyền c ủa bị đơn (Theo văn bản ủy quyền ngày 26/4/2023): Bà Mã Thúy M, sinh năm: 1996 (có mặt) Địa chỉ: KDC H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Đinh Xuân H1 (vng mặt) Địa chỉ: Số B M, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

Địa chỉ liên hệ: Số H H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

2/ Bà Nguyễn Thị Diễm T, sinh năm: 1986 (có mặt) Địa chỉ: Số H H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

Địa chỉ liên hệ: Số B M, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

3/ Ông Lê Đình T1, sinh năm: 1976 (vắng mặt) Địa chỉ: Số A T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.

Địa chỉ liên hệ: Số A đường B, khu dân cư I, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

4/ Văn phòng C (Có đơn xin giải quyết vắng mặt) Địa chỉ: Số C T, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

5/ Văn phòng Công chứng Ngô Hồng T2 (Có đơn xin giải quyết vắng mặt) Địa chỉ: H V, khu V, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ.

6. Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai quận N (Có đơn xin giải quyết vắng mặt) Địa chỉ: Số G L, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện nguyên đơn ông Võ Chí H2 và bà Nguyễn Lương Mỹ L trình bày:

Ngày 30/12/2022, ông bà có vay của ông Nguyễn Văn Q số tiền 200.000.000 đồng lãi suất thỏa thuận không trái với pháp luật. Thời hạn vay là 06 tháng. Hợp đồng vay tiền được Văn phòng C chứng nhận số 1523, quyển số 1/2022/TP/CC/HĐGD ngày 30/12/2022. Để đảm bảo cho khoản vay nêu trên ông bà đồng thời lập Hợp đồng ủy quyền ủy quyền cho ông Q thay mặt và nhân danh ông bà thực hiện các giao dịch cầm cố, thế chấp cho thuê, tặng cho, góp vốn, đặt cọc, chuyển nhượng đối với tài sản của ông bà là Quyền sử dụng đất tại thửa đất số 722, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại khu V, đường N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. Theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL 438324, số vào sổ cấp GCN CS 18910 được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C cấp ngày 17/01/2018. Hợp đồng ủy quyền này cũng được Văn phòng C chứng nhận số 1521, quyển 1/2022/TP/CC/HĐGD ngày 30/12/2022. Tuy nhiên, ngay sau khi ông bà ký hợp đồng ủy quyền, chưa hết hạn vay, ông Q đã lập hợp đồng chuyển nhượng tài sản nêu trên của ông bà cho ông Đinh Xuân H1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do Văn phòng C xác nhận ngày 30/12/2022, số công chứng 1524, quyển số 1/2022/TP/CC-SCC/HĐGD. Sau đó, ông H1 đã làm thủ tục chỉnh lý sang tên và được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N chỉnh lý sang tên ông H1 ngày 06/01/2023. Ngày 19/01/2023, ông H1 và vợ là bà Nguyễn Thị Diễm T đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chuyển nhượng tài sản nêu trên của ông bà cho ông Lê Đình T1, hợp đồng được lập tại Văn phòng C số công chứng 260, quyển 1/2023/TP/CC-SCC/HĐGD. Như vậy, từ tài sản thế chấp để đảm bảo cho hợp đồng vay tiền nhưng ông Q đã đem chuyển nhượng tài sản của ông bà cho người khác khi thời hạn vay chưa hết, sau đó tài sản này lại được chuyển dịch cho người thứ ba. Việc làm này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông bà. Thực chất Hợp đồng ủy quyền số 1521, quyền 1/2022/TP/CC/HĐDGD ngày 30/12/2022 là Hợp đồng giả cách nhằm che giấu cho giao dịch thế chấp tài sản để vay tiền giữa ông bà và ông Q. Ong bà đã nhiều lần yêu cầu ông Q phải trả lại tài sản cho ông bà và ông bà sẽ trả lại tiền vay là 200.000.000 đồng và lãi suất theo quy định cho ông Q trong thời gian ông bà vay tiền của ông Q nhưng ông Q không thực hiện. Do đó, ông bà khởi kiện yêu cầu Tòa án:

+ Hủy Hợp đồng vay tiền số 1523, quyển 1/2022/TP/CC/HDDGD ngày 30/12/2022 do Văn phòng C chứng nhận.

+ Hủy Hợp đồng ủy quyền số 1521, quyển 1/2022/TP/CC/HDDGD ngày 30/12/2022 do Văn phòng C chứng nhận.

+ Tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 1524, quyển số 1/2022/TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng C chứng nhận ngày 30/12/2022 vô hiệu.

+ Tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 260, quyển 1/2023/TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng C chứng nhận ngày 19/01/2023 vô hiệu.

+ Hủy chỉnh lý chuyển nhượng cho ông Đinh Xuân H1 do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận N xác nhận ngày 06/01/2023 trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL 438324, số vào sổ cấp GCN CS 18910 được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C cấp ngày 17/01/2018 cho ông H.

+ Buộc ông Q phải trả lại tài sản là quyền sử dụng đất tại thửa số 722, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại khu V, đường N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL 438324, số vào sổ cấp GCN CS 18910 được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C cấp ngày 17/01/2018 cho ông bà.

+ Ông bà đồng ý trả cho ông Q 200.000.000 đồng và lãi suất 1.75%/tháng từ ngày 01/02/2023 cho đến khi thanh toán xong nợ.

* Đại diện bị đơn ông Nguyễn Văn Q - bà Mã Thúy M trình bày: Thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn. Bị đơn đồng ý:

+ Hủy Hợp đồng vay tiền số 1523, quyển 1/2022/TP/CC/HDDGD ngày 30/12/2022 do Văn phòng C chứng nhận.

+ Hủy Hợp đồng ủy quyền số 1521, quyển 1/2022/TP/CC/HDDGD ngày 30/12/2022 do Văn phòng C chứng nhận.

+ Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 1524, quyển số 1/2022/TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng C chứng nhận ngày 30/12/2022.

+ Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số Công chứng 260, quyển 1/2023/TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng C chứng nhận ngày 19/01/2023.

+ Hủy việc chính lý chuyển nhượng cho ông H1 do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận N ngày 06/01/2023 trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL 438324, số vào sổ cấp GCN CS 18910 được Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố C cấp ngày 17/01/2018 cho ông H.

+ Bị đơn đồng ý trả lại tài sản là quyền sử dụng đất tại thửa số 722, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại khu V, đường N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL 438324, số vào sổ cấp GCN CS18910 được Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố C cấp ngày 17/01/2018 cho ông bà.

+ Thống nhất việc nguyên đơn phải trả cho ông Q 200.000.000 đồng và lãi suất 1.75%/tháng từ ngày 01/02/2023 cho đến khi thanh toán xong nợ.

+ Đối với số tiền 800.000.000 đồng bị đơn nợ của ông H1, bà T, phía bị đơn đồng ý trả cho ông H1, bà T. Tuy nhiên, đối với phần nợ lãi trên số tiền 800.000.000 đồng bị đơn không đồng ý trả cho ông H1 và bà T. Vì giữa ông Q và ông H1, bà T đã thỏa thuận giao xe trừ nợ lãi cho ông H1, bà T rồi.

* Ông Đỉnh Xuân H1 và bà Nguyễn Thị Diễm T trình bày: Ông bà cho rằng giữa ông bà và bị đơn - ông Q là bạn làm nhôm chung với nhau. Do ông Q nhờ ông đứng ra mượn nợ dùm cho ông Q số tiền 800.000.000 đồng từ ông Lê Đình T1, ông Q sang tên phần đất tranh chấp cho ông đứng tên dùm theo Hợp đồng ủy quyền. Do ông bà đứng ra mượn tiền dùm ông Q số tiền nêu trên của ông T1 nên ngày 19/01/2023 ông và bà T đã ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông Lê Đình T1. Đây chỉ là giả cách của hợp đồng vay, bản chất không phải là hợp đồng chuyển nhượng. Lãi suất ông bà vẫn đóng cho ông T1 từ ngày ký hợp đồng. Đối với ý kiến bị đơn đồng ý trả số tiền 800.000.000 đồng cho ông bà thì ông bà đồng ý. Ông bà thống nhất việc bị đơn ông Q đồng ý trả cho ông bà số tiền nợ gốc 800.000.000 đồng, thống nhất không tính lãi đối với bị đơn ông Q. Đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, hủy các hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng ủy quyền và hủy chỉnh lý sang tên ông Đinh Xuân H1 do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận N xác nhận ngày 06/01/2023 đối với thửa đất số: 722, tờ bản đồ số: 8, tọa lạc tại: Khu V, đường N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ để sang tên chuyển trả đất cho ông H2, bà L.

Đối với hợp đồng chuyển nhượng giữa ông H1, bà T và ông T1 thì ông bà sẽ trao đổi thỏa thuận thương lượng với ông T1. Thống nhất đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.

* Ông Lê Đình T1 vng mặt nhưng tại biên bản vắng mặt ngày 20/3/2023 ông có ý kiến trình bày: Ông H1 và bà T nợ ông số tiền 800.000.000 đồng, lãi: 24.000.000 đồng/tháng, đã đóng lãi từ ngày 19/01/2023 đến ngày 20/3/2023 được 02 tháng. Hai bên thỏa thuận thời hạn vay là 03 tháng kể từ ngày ký hợp đồng vay tài sản. nếu ông H1, bà T không trả cho ông số tiền nợ đã mượn thì phải sang tên quyền sử dụng đất cho ông. Nhưng hiện nay phần đất tranh chấp, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa ông và ông H1, bà T thì ông có ý kiến yêu cầu ông H1, bà T trả cho ông số tiền 800.000.000 đồng và lãi suất 24.000.000 đồng/tháng từ ngày 19/3/2023 cho đến khi thanh toán xong số tiền nợ thì ông đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng ngày 19/01/2023 để đảm bảo quyền lợi của ông.

* Đại diện Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận N - ông Nguyễn Văn S có đơn xin giải quyết vng mặt và trình bày:

Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có thụ lý hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với phần nhà và đất tọa lạc tại: Khu V, đường N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ, thửa đất số 722, thuộc tờ bản đồ số 8, diện tích 105.0m2, mục đích sử dụng: Đất trồng cây lâu năm theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL438324, số vào sổ cấp GCN: CS18910 được Sở T ký ngày 17/01/2018, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai quận N chỉnh lý ngày 06/01/2023. Qua kiểm tra, rà soát hồ sơ địa chính đang lưu trữ tại Chi nhánh, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N có ý kiến như sau: Đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 14523 UBND quận N cấp ngày 06/11/2015, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N chỉnh lý ngày 03/01/2018, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất từ ông Nguyễn Hữu P sang ông Vô Chí H thành phần hồ sơ gồm có:

+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của số CH14523 UBND quận N cấp ngày 06/11/2015;

+ Hợp đồng Chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất do Văn P1 Công chứng Nguyễn Thanh Đ ký ngày 15/12/2017, số công chứng 17704, quyển số 01/2017/TP/CC - SCC/HĐGD;

+ Phiếu chuyển thông tin địa chính để xác định nghĩa vụ tài chính số 2169/2 Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai quận N ký ngày 19/12/2017;

Ngày 28/12/2017 ông P và ông H hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định. Ngày 03/01/2018, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N ký xác nhận thay đổi trên trang 03 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 14523 cho ông H. Do nhu cầu sử dụng, ông H xin cấp đổi GCN quyền sử dụng đất số CH14523 và ngày 17/01/2018 Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL438324, số vào sổ cs 18910 cho ông H. Đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL438324, số vào sổ CS 18910 được Sở T ký ngày 17/01/2018 cho ông H, Chi nhánh Vàn phòng đăng ký Đất đai quận N chỉnh lý chuyển dịch sang ông Đinh Xuân H1 ngày 06/01/2023, thành phần hồ sơ gồm có:

+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của số cs 18910 được Sở T ký ngày 17/01/2018.

+ Hợp đồng Chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất do Văn phòng C ký ngày 30/12/2022, số công chứng 1524, quyển số 01/2022/TP/CC - SCC/HĐGD;

+ Hợp đồng ủy quyền do Văn phòng C ký ngày 30/12/2022, số công chứng 1521, quyển số 01/2022/TP/CC - SCC/HĐGD.

+ Phiếu chuyển thông tin địa chính để xác định nghĩa vụ tài chính số 18/PCTTĐC Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận N ký ngày 03/01/2023;

Ngày 04/4/2019 ông H và ông H1 hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định. Ngày 06/01/2023, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N ký xác nhận thay đổi trên trang 03 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của số CS 18910 cho ông H1. Từ cơ sở trên, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận N xác nhận thay đổi trên trang 03 Giấy chứng nhận cho ông H, ông H1, đủ điều kiện theo quy định tại khoản 4, Điều 95, Luật Đất đai 2013, Thành phần hồ sơ thực hiện theo khoản 2, Điều 9, Thông tư 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ T5. Trình tự thủ tục thực hiện theo quy định tại Điều 79, Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ. Xác nhận chỉnh lý trang 03 thực hiện theo khoản 1, Điều 17, Thông tư 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ T5. Sở T cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL438324, số vào sổ CS18910 cho ông H đúng theo Điều 76 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ, thành phần hồ sơ đúng theo Khoản 1, Điều 10, Thông tư 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ T5. Đính kèm hồ sơ trích lục. Việc khiếu kiện yêu cầu vô hiệu hợp đồng Chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy hợp đồng ủy quyền, hủy nội dung chỉnh lý trên trang 03 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai quận N giữa ông H và ông H1, phần đất tọa lạc tại: Khu V, đường N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. Căn cứ, theo quy định tại khoản 1 Điều 203 Luật đất đai 2013 thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Đại diện Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai quận N không có ý kiến. Đề nghị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, xem xét, giải quyết vụ việc theo thẩm quyền pháp luật quy định và đề nghị được vắng mặt không tham dự phiên tòa đối với vụ việc này.

* Văn phòng Công chứng Chử Duy T3 xin giải quyết vắng mặt và có ý kiến: Tất cả hợp đồng gồm Hợp đồng vay tiền giữa ông H và ông Q; Hợp đồng ủy quyền giữa bà L, ông H và ông Q; Hợp đồng chuyển nhượng giữa bà L, ông H và ông Đinh Xuân H1 được công chứng viên tại V tiến hành công chứng đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Nên CPCC không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng vay tiền giữa ông H và ông Q; Hợp đồng ủy quyền giữa bà L, ông H và ông Q; Không chấp nhận yêu cầu tuyên bố vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng giữa bà L, ông H và ông Đinh Xuân H1. Đề nghị Tòa án giải quyết theo thẩm quyền và theo quy định của pháp luật.

* Văn phòng ng chứng Ngô Hồng T2 xin giải quyết vng mặt và có ý kiến: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 260 được công chứng tại VPCC Ngô Hồng T2 chứng nhận theo đúng quy định pháp luật. Đối với yêu cầu của các bên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn trình bày: Vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

- Đại diện bị đơn - bà Mã Thúy M và người liên quan bà Nguyễn Thị Diễm T trình bày: Vẫn giữ nguyên ý kiến như tại các buổi làm việc, hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiu phát biểu quan điểm:

- Về t tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Thư ký đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết. Đương sự thực hiện đúng quy định. Ông Lê Đình T1 và ông Đinh Xuân H1 đã được triệu tập hợp lệ tham gia các phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Đại diện Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận N, Văn phòng C, Văn phòng C có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt các đương sự đúng theo quy định Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

+ Tuyên bố Hủy Hợp đồng vay tiền số 1523, quyển 1/2022/TP/CC/HDDGD ngày 30/12/2022 do Văn phòng C chứng nhận.

+ Hủy Hợp đồng ủy quyền số 1521, quyển 1/2022/TP/CC/HĐGD ngày 30/12/2022 do Văn phòng C chứng nhận.

+ Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 1524, quyển số 1/2022/TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng C chứng nhận ngày 30/12/2022 vô hiệu.

+ Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số Công chứng 260, quyển 1/2023/TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng C chứng nhận ngày 19/01/2023 vô hiệu.

+ Hủy nội dung xác nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đinh Xuân H1 ngày 06/01/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận N theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL 438324, số vào sổ cấp GCN CS 18910 được Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố C cấp ngày 17/01/2018 cho ông Võ Chí H đứng tên sử dụng.

+ Ghi nhận việc nguyên đơn có trách nhiệm trả cho bị đơn số tiền 200.000.000 đồng và lãi suất 1.75%/tháng tạm tính từ ngày 01/02/2023 cho đến ngày xét xử sơ thẩm (30/6/2023). Cụ thể: 4 tháng 29 ngày x 200tr x 1.75% = 17.383.000 đồng. Tổng cộng gốc và lãi: 217.383.000 đồng. Và kể từ ngày 01/7/2023 nguyên đơn còn phải tiếp tục chịu lãi theo mức lãi suất thỏa thuận 1.75%/tháng cho đến khi thanh toán xong nợ.

+ Ghi nhận việc ông Nguyễn Văn Q có trách nhiệm trả số tiền nợ gốc 800.000.000 đồng cho ông Đinh Xuân H1 và bà Nguyễn Thị Diễm T, không tính lãi trên số tiền nợ gốc.

+ Đối với số tiền ông Đinh Xuân H1 và bà Nguyễn Thị Diễm T nợ ông Lê Đình T1, do các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ông Lê Đình T1 có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác khi có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong h sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Giữa ông H, bà L và ông Q đã ký hợp đồng vay tiền và hợp đồng ủy quyền với nhau. Sau đó, ông Q ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông H1. Ông H1 tiếp tục ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông T1. Tuy nhiên, ông H, bà L cho rằng Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng giữa ông bà và ông Q là giả cách của hợp đồng vay tiền nên ông bà có đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố hủy Hợp đồng vay tiền, hủy hợp đồng ủy quyền và tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, Hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất”. Bị đơn cư trú tại quận N nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm b khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về t tụng:

+ Ông Lê Đình T1 và ông Đinh Xuân H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia các phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do.

+ Đại diện Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận N, Văn phòng C, Văn phòng C có đơn xin giải quyết vắng mặt.

Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Đối với yêu cầu hủy hp đng vay tiền s 1523, quyển 1/2022/TP/CC/HDDGD ngày 30/12/2022 do Văn phòng C chứng nhận.

Nhận thấy: Ngày 30/12/2022, ông H2, bà L có vay của ông Q số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), lãi suất thỏa thuận 1.75%/tháng. Thời hạn vay: 06 tháng kể từ ngày hợp đồng được công chứng. Các bên thỏa thuận lập 02 hợp đồng vay tiền cùng ngày. Gồm 01 hợp đồng vay có công chứng và 01 hợp đồng không công chứng.

Theo đó, hợp đồng vay tiền không công chứng thể hiện: Tài sản thế chấp là thửa đất số 722, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại khu V, đường N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. Theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL 438324, số vào sổ cấp GCN CS 18910 được Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố C cấp ngày 17/01/2018 cho ông Võ Chí H. Thời hạn được xác định từ ngày 30/12/2022 đến ngày 30/6/2023 thì bên A (tức ông Q) không có quyền thực hiện các giao dịch thế chấp, cho thuê, tặng cho, góp vốn, đặt cọc, chuyển nhượng đối với tài sản trên.

Đối với hợp đồng vay tiền có công chứng cùng ngày 30/12/2022 tại Văn phòng C thể hiện cùng số tiền vay, thỏa thuận lãi suất và thời hạn vay như hợp đồng vay không có công chứng nêu trên, nhưng không có tài sản thế chấp. Giữa nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận các bên lập 02 hợp đồng vay tiền nhưng chỉ có khoản tiền vay là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng). Nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận nguyên đơn còn nợ bị đơn số tiền trên, chưa trả. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy hợp đồng vay tiền giữa ông H và ông Q ngày 30/12/2022 có công chứng theo số 1523, quyển 1/2022/TP/CC/HĐGD ngày 30/12/2022 tại Văn phòng C, bị đơn đồng ý nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

- Đối với yêu cầu hủy Hợp đồng ủy quyền, tuyên bo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng tại Văn phòng C ngày 30/'12/2022 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng tại Văn phòng C ngày 19/01/2023 vô hiệu.

Nhận thấy: Để đảm bảo cho số tiền vay 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) theo hợp đồng vay nêu trên, ông H2 và bà L đã thế chấp tài sản cho ông Q là thửa đất số 722 thuộc quyền sử dụng của ông H, nội dung thỏa thuận thế chấp được thể hiện trong hợp đồng vay tiền ngày 30/12/2022 không công chứng. Và cùng ngày hai bên đã lập hợp đồng ủy quyền được công chứng tại Văn phòng C. Theo đó, ông H2, bà L ủy quyền cho ông Q được quyền thay mặt và nhân danh ông bà thực hiện các giao dịch đối với thửa đất số 722 nêu trên. Bản chất của hợp đồng ủy quyền giữa hai bên thỏa thuận nhằm để đảm bảo cho khoản vay của nguyên đơn đối với bị đơn. Tuy nhiên, ngay sau khi ký hợp đồng ủy quyền, chưa hết thời hạn vay theo thỏa thuận, cùng ngày vay thì ông Q đã lập hợp đồng chuyển nhượng tài sản nêu trên cho ông Đinh Xuân H1 theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do Văn phòng C xác nhận ngày 30/12/2022, số công chứng 1524. Đến ngày 06/01/2023 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N chỉnh lý xác nhận chuyển nhượng cho ông Đinh Xuân H1. Nhận thấy, ông Q đã vi phạm thỏa thuận của hợp đồng vay tài sản có thể chấp tài sản.

Đến ngày 19/01/2023, ông H1 và vợ là bà Nguyễn Thị Diễm T đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chuyển nhượng tài sản nêu trên cho ông Lê Đình Thành công C tại Văn phòng C số công chứng 260. Như vậy, từ tài sản thế chấp để đảm bảo cho hợp đồng vay tiền nhưng ông Q đã chuyển nhượng tài sản của nguyên đơn cho người khác khi thời hạn vay chưa hết, sau đó tài sản này lại được chuyển nhượng cho người thứ ba.

Xét thấy, các bên đều thừa nhận không giao nhận tiền chuyển nhượng đất với nhau mà giao dịch giữa các bên là giao dịch vay tiền. Cụ thể: Ông H vay của ông Q 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng); Ông Q vay của ông H1, bà T số tiền 800.000.000 đồng (T4 trăm triệu đồng); Ông H1, bà T vay của ông T1 800.000.000 đồng (Tám trăm triệu đồng). Các bên đã thừa nhận nên thuộc tình tiết sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

Từ đó cho thấy, Hợp đồng ủy quyền và các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên là giả tạo nhằm che đậy giao dịch vay tiền với nhau nên vi phạm quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015.

Mặt khác, theo biên bản thẩm định tại cho ngày 18/5/2023 thể hiện nhà và đất tại thửa đất số 722 do ông H2, bà L quản lý sử dụng, phía ông Q, ông H1, bà T và ông T1 không quản lý, sử dụng thửa đất nêu trên. Phía ông Q, ông H1, bà T cùng thống nhất hủy hợp đồng ủy quyền và đề nghị tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng nêu trên vô hiệu.

Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy Hợp đồng ủy quyền, tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng tại Văn phòng C ngày 30/12/2022 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng tại Văn phòng C ngày 19/01/2023 vô hiệu là có căn cứ chấp nhận.

Như đã phân tích phần trên, do hợp đồng ủy quyền và các hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu nên ghi nhận việc các bên thống nhất hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Bị đơn yêu cầu nguyên đơn trả số tiền vay 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) và lãi 1.75%/tháng kể từ ngày 01/02/2023 đến khi thanh toán xong nợ. Đồng thời, bị đơn đồng ý trả cho ông H1, bà T số tiền 800.000.000 đồng (Tám trăm triệu đồng), các đương sự thống nhất thỏa thuận nên ghi nhận.

Do đó, ghi nhận việc nguyên đơn có trách nhiệm trả cho bị đơn số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) và lãi suất 1,75%/tháng (Một phẩy bảy mươi lăm phần trăm trên tháng) tạm tính từ ngày 01/02/2023 cho đến ngày xét xử sơ thẩm (06/7/2023). Cụ thể: 05 tháng 05 ngày x 200tr x 1.75% = 18.083.000 đồng (Mười tám triệu không trăm tám mươi ba nghìn đồng). Tổng cộng gốc và lãi: 218.083.000 đồng (Hai trăm mười tám triệu không trăm tám mươi ba nghìn đồng). Và kể từ ngày 07/7/2023 nguyên đơn còn phải tiếp tục chịu lãi theo mức lãi suất thỏa thuận 1.75%/tháng cho đến khi thanh toán xong nợ.

+ Ghi nhận việc ông Nguyễn Văn Q có trách nhiệm trả số tiền nợ gốc 800.000.000 đồng cho ông Đinh Xuân H1 và bà Nguyễn Thị Diễm T, không tính lãi trên số tiền nợ gốc.

+ Đối với số tiền ông Đinh Xuân H1 và bà Nguyễn Thị Diễm Tnợ ông Lê Đình T1 800.000.000 đồng, do các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ông Lê Đình T1 có quyền khởi kiện yêu cầu ông H1, bà T thành vụ kiện khác khi có yêu cầu.

- Đối với yêu cầu hủy nội dung xác nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đinh Xuân H1 ngày 06/01/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận N.

Xét thấy, do hợp đồng ủy quyền và các hợp đồng chuyển nhượng giữa các bên vô hiệu, không có hiệu lực nên việc nguyên đơn yêu cầu hủy chỉnh lý xác nhận chuyển nhượng cho ông Đinh Xuân H1 là phù hợp, có căn cứ chấp nhận. Mặt khác, phía ông Q, ông H1 và bà T thống nhất nên ghi nhận.

Do đó, kiến nghị Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N hủy phần nội dung xác nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đinh Xuân H1 ngày 06/01/2023 và thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng đất nêu trên cho nguyên đơn theo quy định.

- Đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản chính) hiện nay các bên khai nhận do ông Lê Đình T1 đang giữ nên buộc ông Lê Đình T1 có trách nhiệm giao trả Giấy chứng nhận (bản chính) cho ông H2, bà L để ông bà thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật. Trường hợp sau khi ông H, bà L thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho bị đơn ông Q mà ông Lê Đình T1 không giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đăng ký đứng tên quyền sử dụng đất theo quy định.

Từ những chứng cứ và phân tích nêu trên có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[3] Về chi phí thẩm định: Bị đơn phải chịu 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Nguyên đơn đã nộp tạm ứng và đã chi xong. Nên bị đơn có trách nhiệm trả cho nguyên đơn số tiền trên.

[4] V án phí dân sự sơ thẩm:

- Do giữa ông H, bà L và ông Q đã thỏa thuận được trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử nên ông H2, bà L chịu 50% án phí. Do đó, ông H2 bà L phải chịu 5.542.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng ông bà được khấu trừ vào số tiền 6.800.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000706 ngày 28/02/2023 tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều. Ông H2, bà L được nhận lại 1.348.000 đồng.

- Do giữa ông H2, bà L và ông Q và ông H1, bà T đã thỏa thuận được trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử nên ông Q chịu 50% án phí. Do đó, ông Q phải chịu 18.150.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Do đó, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1] Căn cứ vào:- Khoản 3 Điều 26, Điểm b khoản 1 Điều 35, Điều 92, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 124, 131, Điều 463, Điều 468, Điều 470, Điều 500 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2]Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Chí H, bà Nguyễn Lương Mỹ L.

- Hủy Hợp đồng vay tiền giữa ông Võ Chí H và ông Nguyễn Văn Q số 1523 ngày 30/12/2022 do Văn phòng C chứng nhận.

- Hủy Hợp đồng ủy quyền giữa ông Võ Chí H, bà Nguyễn Lương Mỹ L và ông Nguyễn Văn Q số 1521 ngày 30/12/2022 do Văn phòng C chứng nhận.

- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Võ Chí H, bà Nguyễn Lương Mỹ L do ông Nguyễn Văn Q làm đại diện với ông Đinh Xuân H1, số công chứng 1524 được Văn phòng C chứng nhận ngày 30/12/2022 vô hiệu.

- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đinh Xuân Hùng H1, bà Nguyễn Thị Diễm T và ông Lê Đình T1 số Công chứng 260, quyển 1/2023/TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng C chứng nhận ngày 19/01/2023 vô hiệu.

- Hủy nội dung xác nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đinh Xuân H1 ngày 06/01/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận N theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 18910 được Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố C cấp ngày 17/01/2018.

- Ghi nhận việc nguyên đơn có trách nhiệm trả cho bị đơn tổng số tiền: 218.083.000 đồng (Trong đó: Nợ gốc: 200.000.000 đồng và lãi tạm tính đến ngày 06/7/2023 là: 18.083.000 đồng). Kể từ ngày 07/7/2023 nguyên đơn còn phải tiếp tục chịu lãi theo mức lãi suất thỏa thuận 1.75%/tháng trên số tiền nợ gốc cho đến khi thanh toán xong nợ cho bị đơn.

- Ghi nhận việc ông Nguyễn Văn Q có trách nhiệm trả cho ông Đinh Xuân H1 và bà Nguyễn Thị Diễm T số tiền 800.000.000 đồng, không tính lãi.

- Kiến nghị Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N hủy phần nội dung xác nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đinh Xuân H1 ngày 06/01/2023 và thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng đất nêu trên cho nguyên đơn theo quy định.

- Buộc ông Lê Đình T1 có trách nhiệm giao trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 18910 được Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố C cấp ngày 17/01/2018 (bản chính) cho ông H, bà L để ông bà thực hiện quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật. Trường hợp sau khi ông H, bà L thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho bị đơn ông Q mà ông Lê Đình T1 không giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đăng ký đứng tên quyền sử dụng đất theo quy định.

- Đối với số tiền ông Đinh Xuân H1 và bà Nguyễn Thị Diễm T nợ ông Lê Đình T1 800.000.000 đồng, do các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ông Lê Đình T1 có quyền khởi kiện yêu cầu ông H1, bà T giải quyết thành vụ kiện khác khi có yêu cầu.

3] Về chi phí thm định: Bị đơn phải chịu 1.000.000 đồng. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng và đã chi xong. Nên bị đơn có trách nhiệm trả cho nguyên đơn số tiền trên.

4] Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Nguyên đơn ông Võ Chí H và bà Nguyễn Lương Mỹ L phải chịu 5.452.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng ông bà được khấu trừ vào số tiền 6.800.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000706 ngày 28/02/2023 tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều. Ông H, bà L được nhận lại 1.348.000 đồng.

- Ông Nguyễn Văn Q phải chịu 18.150.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5] Về quyển kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Đương sự vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết) để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng ủy quyền số 132/2023/DS-ST

Số hiệu:132/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:06/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về