Bản án về tranh chấp hợp đồng ủy quyền số 32/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CN THƠ

BẢN ÁN 32/2024/DS-PT NGÀY 23/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN

Trong ngày 23 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 462/2023/TLPT-DS ngày 16 tháng 11 năm 2023 về “Tranh chấp hủy hợp đồng ủy quyền, hợp đồng nhận cọc, hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 131/2021/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ bị nguyên đơn kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 579/2023/QĐPT-DS ngày 18 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

1.1 Ông Dương Văn C, sinh năm 1986; (vắng mặt) 1.2 Bà Nguyễn Thị Trúc L, sinh năm 1991; (vắng mặt) Địa chỉ: số B Khu V, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ.

Đại diện hợp pháp: Ông Trần Chấn H; địa chỉ: Số C Z Khu đô thị M, Khu V, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt) 2. Bị đơn: Ông Nguyễn Nhựt G, sinh năm 1984; (có mặt) Địa chỉ: Số I Khu V, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Bà Nguyễn Thúy N, sinh năm 1983; (vắng mặt) Địa chỉ: Số A tổ B, Khu V, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ.

3.2 Văn phòng C1; (vắng mặt) Địa chỉ: Số G khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông C, bà L (có ông H đại diện ủy quyền) trình bày: Ông bà có phần đất bị ảnh hưởng, thu hồi bởi Dự án Khu đô thị mới và Khu Công nghệ thông tin tập trung phường H, quận C, thành phố cần Thơ nên được xét cấp 01 nền tái định cư diện tích 60m2 (Theo Quyết định số 4393/QĐ-UBND ngày 24/10/2017 của Ủy ban nhân dân quận C). Ngày 21/11/2017 ông bà nhận đặt cọc 40.000.000 đồng của ông G để chuyển nhượng suất nền tái định cư, giá chuyển nhượng nền tái định cư 295.000.000 đồng. Sau đó thì được Ban quản lý dự án và Phát triển quỹ đất quận C thông báo ông bà được xét mua nền diện tích 72m2 nên liên hệ ông G để thỏa thuận lại tiền cọc nhưng không được.

Ông bà khởi kiện, yêu cầu hủy hợp đồng nhận cọc ngày 21/11/2017, hủy hợp đồng ủy quyền với ông G, ông bà trả lại ông G tiền cọc đã nhận (Theo Đơn kiện đề ngày 28/5/2021). Ngày 30/6/2023 ông bà khởi kiện bổ sung yêu cầu Hủy hợp đồng ủy quyền ngày 20/5/2021 giữa ông bà với bà N, buộc bà N giao trả lại nền tái định cư LK09-16 Đường số 7 cấp ngày 08/02/2021 và tháo dỡ, di dời căn nhà đã xây dựng trên đất, hủy hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư ngày 30/11/2017 giữa ông bà với ông G, hủy hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư ngày 20/5/2021 giữa ông G với bà N.

Bị đơn ông G trình bày: Việc chuyển nhượng nền tái định cư nêu trên giữa ông với ông C, bà L, giữa ông với bà N đều được công khai, thỏa thuận đồng ý trên tinh thần các bên đều gặp gỡ, không ai lừa dối ai. Được công Chứng viên chứng thực theo quy định tại Văn phòng C1. Việc thỏa thuận mua bán kiểu này diễn ra rất bình thường trong giao dịch lúc bấy giờ. Quyền, nghĩa vụ của các bên đã được hoàn thành từ rất lâu. Lúc ông ký bán lại nền tái định cư này cho bà N đều có mặt ông C, bà L và ông bà cũng đồng ý, cũng ký các văn bản cho ông và bà N với mong muốn tiếp tục chuyển nhượng cho bà N. Ông bà cũng đòi hỏi nhận thêm tiền từ bà N nên bà N cũng đã có đưa thêm cho ông bà 100.000.00 đồng (Việc chủ gốc mỗi lần ký hủy ủy quyền, ký hợp đồng mua bán lại với người mua thứ ba theo thông lệ giao dịch mua bán kiểu này thì chủ gốc đều được nhận thêm tiền từ người mua thứ ba). Sau khi nhận đủ tiền ông bà không hề liên hệ, quan tâm gì đến lô nền này. Các giao dịch giữa ông với ông C, bà L là công khai minh bạch, không vi phạm pháp luật nên không Có căn cứ để hủy. Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông C, bà L.

Ông G có yêu cầu phản tố đối với ông C, bà L: Công nhận hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư ngày 30/11/2017 giữa ông với ông C, bà L; Công nhận hợp đồng ủy quyền ngày 30/11/2017 giữa ông với ông C, bà L; Công nhận hợp đồng chấm dứt hợp đồng ủy quyền ngày 20/5/2021 giữa ông với ông C, bà L; Công nhận hợp đồng thỏa thuận mua bán/chuyển nhượng nền tái định cư ngày 20/5/2021 giữa ông với bà N.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà N trình bày: Trước khi nhận chuyển nhượng nền tái định cư trên bà được ông G cung cấp thông tin giấy tờ, pháp lý mà ông đã mua từ ông C, bà L. Ông C, bà L đã nhận đủ số tiền chuyển nhượng từ ông G 295.000.000 đồng (Được ông bà ký xác nhận, nhận tiền tại Hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư ngày 30/11/2017) nên việc mua bán/chuyển nhượng này giữa các ông bà đã hoàn thành. Khi bà nhận chuyển nhượng nền tái định cư trên thì có gặp trực tiếp ông C, bà L (chủ gốc) để xác nhận và chính ông bà cũng xác nhận nội dung mua bán với ông G là thật, từ đó bà mới ký Hợp đồng thỏa thuận mua bán/chuyển nhượng nền tái định cư ngày 20/5/2021 với ông G, đã đủ cho ông G 1.800.000.000 đồng.

Việc mua bán, chuyển nhượng giữa bà với ông G diễn ra trước sự chứng kiến của ông C, bà L và Công Chứng viên tại Văn phòng C1. Từ đó ông C, bà L mới đồng ý ký chấm dứt Hợp đồng ủy quyền ngày 30/11/2017 với ông G. Cũng theo thông lệ giao dịch kiểu như thế này, để mỗi lần ông C, bà L (chủ gốc) ký chấm dứt Hợp đồng ủy quyền thì người mua thứ ba phải đưa thêm tiền nên, với mong muốn/yêu cầu của ông C, bà L thì bà cũng đồng ý giao thêm cho ông bà 100.000.000 đồng với điều kiện không tranh chấp, hủy ngang hợp đồng về sau. Hợp đồng ủy quyền giữa bà với ông C, bà L đã thỏa thuận rõ tại Điều 1, Điều 2 việc chuyển giao cho bà toàn quyền định đoạt trong quá trình liên hệ nhận nền, thủ tục cấp Giấy chứng nhận... và không được hủy ngang mà không được sự đồng ý của bà. Do mọi việc thỏa thuận mua bán/chuyển nhượng giữa bà, ông G với ông C, bà L đều công khai trên tinh thần tự nguyện trước sự chứng kiến, đồng ý của ông C, bà L. Quyền và nghĩa vụ của các bên đều đã hoàn thành ngay khi ký hợp đồng, bà đã xây dựng căn nhà trên đất để ở và kinh doanh. Việc ông C, bà L yêu tháo dỡ tài sản có giá trị mà bà xây dựng trên đất là vô lý, lãng phí nên không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông C, bà L.

Bà N có yêu cầu độc lập đối với Ông G: Công nhận Hợp đồng thỏa thuận mua bán/chuyển nhượng ngày 20/5/2021 giữa bà với ông G.

Bà N có yêu cầu độc lập đối với ông C, bà L: Công nhận Hợp đồng ủy quyền ngày 20/5/2021 giữa bà với ông C, bà L; Yêu cầu ông C, bà L trả lại cho bà số tiền đã nhận 100.000.000 đồng do vi phạm cam kết về tranh chấp, hủy ngang hợp đồng.

Văn phòng C1 trình bày: Các văn bản được Văn phòng công chứng chứng thực đúng người, đúng ý chí tự nguyện thỏa thuận các bên theo Luật Công chứng nên không có căn cứ pháp luật để hủy.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 131/202/DS-ST ngày 29/8/2023 Tòa án nhân dân quận Cái Răng đã tuyên xử:

1. Không Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L đối với ông Nguyễn Nhựt G và bà Nguyễn Thúy N.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Nhựt G đối với ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L.

Công nhận các hợp đồng sau đây giữa ông Nguyễn Nhựt G với ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L có hiệu lực pháp luật: Hợp đồng nhận cọc ngày 21/11/2017; Hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư ngày 30/11/2017; Hợp đồng ủy quyền ngày 30/11/2017 số 4534, quyển số: XI/2017/TP/CC-SCC/HĐGD của Văn phòng C1.

Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thúy N đối với ông Nguyễn Nhựt G và ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L.

Công nhận Hợp đồng thỏa thuận mua bán/chuyển nhượng lô nền ngày 20/5/2021 giữa bà Nguyễn Thúy N với ông Nguyễn Nhựt G có hiệu lực pháp luật.

Công nhận Hợp đồng ủy quyền ngày 20/5/2021 số 1947, quyển số: V/2021/TP/CC-SCC/HĐGD của Văn phòng C1 giữa bà Nguyễn Thúy N với ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L có hiệu lực pháp luật.

Bà Nguyễn Thúy N được quyền liên hệ cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho mình theo quy định của Luật Đất đai (Kèm theo Bản trích đo địa chính số 599/TTKTTNMT ngày 15/6/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường Thành phố C).

Không Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thúy N về việc đòi ông Dương Văn c, bà Nguyễn Thị Trúc L trả lại 100.000.000 đồng.

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu hủy Hợp đồng chấm dứt hợp đồng ủy quyền ngày 20/5/2021 giữa ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L với ông Nguyễn Nhựt G.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng; quyền kháng cáo; quyền thi hành án và thời hiệu thi hành án của các bên đương sự.

Bản án trên đã bị nguyên đơn kháng cáo, Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo. Cụ thể yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: “hủy hợp đồng nhận cọc ngày 21/11/2017, hủy hợp đồng ủy quyền với ông G, ông bà trả lại ông G tiền cọc đã nhận (Theo Đơn kiện đề ngày 28/5/2021). Ngày 30/6/2023 ông, bà khởi kiện bổ sung yêu cầu Hủy hợp đồng ủy quyền ngày 20/5/2021 giữa ông bà với bà N, buộc bà N giao trả lại nền tái định cư LK09-16 Đường số G, khu đô thị mới và khu Công nghệ thông tin tập trung, phường H, quận C, thành phố cần Thơ cấp ngày 08/02/2021 và tháo dỡ, di dời căn nhà đã xây dựng trên đất, hủy hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư ngày 30/11/2017 giữa ông bà với ông G, hủy hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư ngày 20/5/2021 giữa ông G với bà N”.

Bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong giai đoạn phúc thẩm Chủ tọa, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung: Căn cứ vào những chứng cư có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bà Nguyễn Thị Thúy N1, Văn phòng C1 có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, do đó Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 296 của Bộ luật tố Tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà N1 và Văn phòng C1.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn: Theo đơn kháng cáo và lời trình bày của đại diện ủy quyền nguyên đơn xác định, nguyên đơn yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ thể: “hủy hợp đồng nhận cọc ngày 21/11/2017, hủy hợp đồng ủy quyền với ông G, ông bà trả lại ông G tiền cọc đã nhận (Theo Đơn kiện đề ngày 28/5/2021). Ngày 30/6/2023 ông bà khởi kiện bổ sung yêu cầu Hủy hợp đồng ủy quyền ngày 20/5/2021 giữa ông bà với bà N1, buộc bà N1 giao trả lại nền tái định cư LK09-16 Đường số G, khu đô thị mới và khu Công nghệ thông tin tập trung, phường H, quận C, thành phố cần Thơ cấp ngày 08/02/2021 và tháo dỡ, di dời căn nhà đã xây dựng trên đất, hủy hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư ngày 30/11/2017 giữa ông bà với ông G, hủy hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư ngày 20/5/2021 giữa ông G với bà N1”. Căn cứ nguyên đơn yêu cầu hủy các Hợp đồng trên vì cho rằng diện tích thỏa thuận ban đầu là 60m2, khi xét cấp nền là 72m2 nên cần thỏa thuận lại giá nhưng không thỏa thuận được. Mặt khác, Hợp đồng các bên ký kết đã vi phạm về mặt hình thức cũng như chưa có đối tượng thực hiện.

[3] Nhận thấy, căn cứ vào các hợp đồng nhận cọc ngày 21/11/2017, hợp đồng ủy quyền giữa nguyên đơn với ông G và hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư ngày 30/11/2017 giữa nguyên đơn với ông G và quá trình giải quyết vụ án các bên đương sự đều thừa nhận giữa nguyên đơn và bị đơn có ký các Hợp đồng trên để chuyển nhượng suất nền tái định cư LK09-16 Đường số G, khu đô thị mới và khu Công nghệ thông tin tập trung, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ. Các bên cũng thừa nhận việc chuyển nhượng này là tự nguyện và bị đơn đã hoàn thành nghĩa vụ trả đủ tiền chuyển nhượng cho nguyên đơn, đồng thời phía bị đơn cũng nhận tài sản. Theo quy định tại khoản 2 Điều 129 của Bộ luật dân sự năm 2015 “Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công Chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”. Mặt khác, Hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư, nguyên đơn và bị đơn đều xác định đây là tài sản hình thành trong tương lai và đến thời điểm hiện nay nền tái định cư hình thành và bàn giao cho chủ sử dụng. Do đó, mặc dù Hợp đồng thỏa thuận mua bán chuyển nhượng nền tái định cư ngày 30/11/2017 giữa nguyên đơn với ông G có vi phạm về mặt hình thức nhưng có đối tượng thực hiện và theo quy định tại khoản 2 Điều 129 của Bộ luật dân sự năm 2015 ông G yêu cầu công nhận Hợp đồng này là có cơ sở chấp nhận.

[4] Đối với căn cứ về diện tích chuyển nhượng có sự chênh lệch giữa lúc thỏa thuận với thời điểm được xét cấp nền Hội đồng xét xử xét thấy, tại Điều 3 của Hợp đồng thỏa thuận mua bán chuyển nhượng nền tái định cư ngày 30/11/2017 giữa nguyên đơn với ông G có thể hiện: “Nếu diện tích lô nền được xét cấp hay xét mua giảm thì bên mua tự chịu bên bán không phải trả lại tiền. Ngược lại, nếu diện tích nền được xét cấp hay xét mua tăng thì bên B (bên mua) được hưởng và có trách nhiệm đóng thêm tiền mua diện tích tăng”. Như vậy, theo Điều này thì diện tích nền tái định cư được xét cấp, xét mua có điều chỉnh tăng hay giảm đều đã được các bên dự liệu và không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện Hợp đồng. Do đó, nguyên đơn lấy căn cứ diện tích mua có sự chênh lệch và không thỏa thuận lại được giá chuyển nhượng để yêu cầu hủy thỏa thuận chuyển nhượng là không có cơ sở chấp nhận.

[5] Tại phiên tòa, đại diện của nguyên đơn cho rằng, ông C và bà L không có ký hợp đồng ủy quyền ngày 20/5/2021 với bà Nguyễn Thúy N1 nên chữ ký trong Hợp đồng không phải của ông bà nhưng ông bà không có yêu cầu giám định chữ ký. Xét thấy, Hợp đồng ủy quyền giữa ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L với bà Nguyễn Thúy N1 được ký ngày 20/5/2021 được công chứng tại Văn phòng công Chứng Cần Thơ nên đảm bảo về mặt hình thức. Về nội dung ủy quyền, tại Điều 1 của Hợp đồng ủy quyền thể hiện bên B (Bà N1) được thay mặt bên A (ông C, bà L) thực hiện các công việc như: nhận các thơ mời, thông báo, các biên bản, các quyết định có liên quan, nộp hồ sơ đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; nộp tiền sử dụng đất và tất cả các loại thuế phí có liên quan; làm và ký các kết tất cả các loại thủ tục có liên quan; ký hợp đồng chuyển nhượng, ký biên bản thanh lý; nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đối với lô LK09-16 Đường số G, khu đô thị mới và khu Cồng nghệ thông tin tập trung, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ. Những nội dung ủy quyền này là sự thỏa thuận tự nguyện của các đương sự, không vi phạm điều cấm, không trái với quy định của pháp luật, về trình tự, thủ tục công chứng, tại bản tự khai ngày 21/11/2021 Văn phòng C1 xác định về trình tự, thủ tục công chứng văn bản ủy quyền đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Tại thời điểm thụ lý và chứng nhận hợp đồng ủy quyền, các đương sự đã xuất trình đầy đủ bản chính chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu và giấy tờ liên quan. Ngoài ra, tại buổi công chứng hai bên đã được nghe đọc lại toàn bộ nội dung ủy quyền và giải thích về quyền và nghĩa vụ của các bên, các bên đồng ý nên mới ký tên. Như vậy, Hợp đồng ủy quyền giữa ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L với bà Nguyễn Thúy N1 được ký ngày 20/5/2021 đã đảm bảo về mặt hình thức, nội dung cũng như trình tự thủ tục ký kết. Mặt khác, ông C, bà L không Có chứng cứ gì chứng minh chữ ký trong Hợp đồng không phải của ông, bà. Từ những nhận định trên cho thấy yêu cầu hủy Hợp đồng ủy quyền giữa ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L với bà Nguyễn Thúy N1 được ký ngày 20/5/2021 tại Văn phòng C1 của ông C, bà L là không có cơ sở chấp nhận.

Từ những nhận định trên cho thấy yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là không có cơ sở chấp nhận kháng cáo. Bản án dân sự sơ thẩm đã tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Dương Văn C, và ba Nguyễn Thị Trúc L mỗi người phải chịu 300.000 đồng, ông C và bà L được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 600.000 đồng thành án phí theo biên lai thu số 0003435 ngày 22/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 12, Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn- ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L.

1. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm 131/202/DS-ST ngày 29/8/2023 Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.

1.1 Không Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L đối với ông Nguyễn Nhựt G và bà Nguyễn Thúy N1.

1.2 Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Nhựt G đối với ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L.

Công nhận các hợp đồng sau đây giữa ông Nguyễn Nhựt G với ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L có hiệu lực pháp luật: Hợp đồng nhận cọc ngày 21/11/2017; Hợp đồng thỏa thuận mua bán nền tái định cư ngày 30/11/2017; Hợp đồng ủy quyền ngày 30/11/2017 số 4534, quyển số: XI/2017/TP/CC-SCC/HĐGD của Văn phòng C1.

1.3 Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thúy N1 đối với ông Nguyễn Nhựt G và ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L.

Công nhận Hợp đồng thỏa thuận mua bán/chuyển nhượng lô nền ngày 20/5/2021 giữa bà Nguyễn Thúy N1 với ông Nguyễn Nhựt G có hiệu lực pháp luật.

Công nhận Hợp đồng ủy quyền ngày 20/5/2021 số 1947, quyển số: V/2021/TP/CC-SCC/HĐGD của Văn phòng C1 giữa bà Nguyễn Thúy N1 với ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L có hiệu lực pháp luật.

Bà Nguyễn Thúy N1 được quyền liên hệ cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho mình theo quy định của Luật Đất đai (Kèm theo Bản trích đo địa chính số 599/TTKTTNMT ngày 15/6/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường Thành phố C).

1.4 Không Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thúy N1 về việc đòi ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L trả lại 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng).

1.5 Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu hủy Hợp đồng chấm dứt hợp đồng ủy quyền ngày 20/5/2021 giữa ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L với ông Nguyễn Nhựt G.

1.6 Về chi phí tố tụng và án phí: Ông Dương Văn C, bà Nguyễn Thị Trúc L phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản 4.854.000 đồng (bốn triệu tám trăm năm mươi bốn nghìn đồng) (đã thực hiện xong) và 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu số 0008674 ngày 17/10/2022 và 0003311 ngày 06/7/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cái Răng, thành phố Cần T. Ông C và bà L được nhận lại 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng).

Ông Nguyễn Nhựt G được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng) theo Biên lai số 0003155 ngày 15/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.

Bà Nguyễn Thúy N1 phải chịu 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm, khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu số 0003158 ngày 16/5/2023 và biên lai thu số 0003157 ngày 16/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Bà N1 còn phải nộp thêm 1.900.000 đồng (một triệu chín trăm nghìn đồng).

2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Dương Văn C, và bà Nguyễn Thị Trúc L mỗi người phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Ông C và bà L được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) thành án phí theo biên lai thu số 0003435 ngày 22/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng ủy quyền số 32/2024/DS-PT

Số hiệu:32/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về