TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 213/2023/DS-ST NGÀY 15/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
Ngày 15 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 323/2021/TLST-DS ngày 04 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hợp đồng đặt cọc; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hủy chỉnh lý sang tên” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 191/2023/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 7 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 108/2023/QĐST-DS ngày 21 tháng 7 năm 2023 và Thông báo về việc thay đổi thời gian mở lại phiên tòa số: 15/2023/TB-TA ngày 14 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị N, sinh năm 1973; địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An. Người đại diện theo ủy quyền của bà N: Nguyễn Văn T, sinh năm 1979; địa chỉ: H Ấp E, xã Đ, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, (giấy ủy quyền ngày 15/02/2023) (có mặt)
2. Bị đơn: Lê Văn A, sinh năm 1969, địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An. (xin vắng mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Lê Văn T1, sinh năm 1983; địa chỉ: Ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An. (xin vắng mặt)
3.2. Lê Thị T2, sinh năm 1986; địa chỉ: Ấp S, thị Trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An. (xin vắng mặt)
3.3. Huỳnh Văn T3, sinh năm 1969; (xin vắng mặt)
3.4. Đặng Nha T4, sinh năm 1969; (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Ấp B, xã B, huyện Đ, tỉnh Long An.
3.5. Võ Chí Q, sinh năm 2002; (xin vắng mặt)
3.6. Võ Hoàng L, sinh năm 2000; (xin vắng mặt)
3.7. Võ Văn H, sinh năm 1975; (có mặt) Cùng địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.
3.8. Nguyễn Quốc S, sinh năm 1982; đăng ký hộ khẩu: Ấp N, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ; địa chỉ: Ấp D, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An (vắng mặt)
3.9. Văn phòng C1, địa chỉ: A, Tỉnh lộ 8, Khu phố B, thị trấn C, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh, (xin vắng mặt)
3.10. Văn phòng C1, địa chỉ: Tỉnh lộ 825, ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An. (xin vắng mặt)
3.11. Văn phòng C1, địa chỉ: B Đường H, Ô, khu B, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An. (xin vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/5/2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 10/4/2023, những lời khai tiếp theo và tại phiên tòa đại diện nguyên đơn ông Nguyễn Văn T trình bày như sau:
Ngày 28/8/2019, bà N và ông Lê Văn A ký biên bản thỏa thuận và hợp đồng ủy quyền tại Phòng C2, để bà N vay 400.000.000 đồng của ông A, lãi suất thực tế 3%/tháng nhưng ghi trong biên bản thỏa thuận là 2%/tháng, thời hạn vay 12 tháng. Từ khi vay đến nay có trả cho ông A 2 tháng tiền lãi là 16.000.000 đồng; chưa trả nợ gốc.
Khoảng ngày 30/8/2019, bà N phát hiện ông A kêu người bán đất của bà N nên bà N bán đất để trả 400.000.000 đồng cho ông A. Ông A đòi mua đất của bà N với giá 2.400.000.000 đồng. Trên thực tế, người mua đất của bà N là ông Lê Văn T1.
Đến ngày 29/10/2019, bà N và ông Lê Văn T1 có ký hợp đồng đặc cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Ông T1 có đặt cọc cho bà N 100.000.000 đồng. Hẹn đến ngày 10/11/2019 đưa tiếp 500.000.000 đồng. Trong vòng 10 ngày từ ngày 10/11/2019 đến ngày 10/3/2020, hai bên ra phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng và ông T1 đưa tiếp 1.800.000.000 đồng. Tuy nhiên từ đó cho đến nay ông T1 không đưa cho bà N bất kỳ khoản tiền nào. Sau đó, bà N phát hiện ông Lê Văn A đã ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông Lê Văn T1 và ông T1 đã được nhà nước cấp quyền sử dụng đất nên bà N khởi kiện ra Công an huyện và Tòa án.
Biên bản về việc giải quyết tranh chấp thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An ngày 25/12/2019, tại Công an huyện Đ có nội dung là ông Lê Văn A có trách nhiệm đưa thêm cho bà N 1.900.000.000 đồng nhưng từ đó đến nay ông A không thực hiện.
Nay, bà N yêu cầu:
- Vô hiệu Hợp đồng ủy quyền số 028123, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/8/2019 lập tại Văn phòng C1 giữa Nguyễn Thị N và ông Lê Văn A. Bà N sẽ hoàn lại cho ông Lê Văn A số tiền đã vay là 400.000.000 đồng; bà N không yêu cầu số tiền lãi 16.000.000 đồng trả cho ông A.
- Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị N (do ông Lê Văn A đại diện) và ông Lê Văn T1 đối với thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 017603; số vào sổ cấp GCN: CS 04068 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho ông Lê Văn T1 ngày 17/10/2019; hủy hợp đồng đặt cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 29/10/2019 giữa Nguyễn Thị N và ông Lê Văn T1.
Tại phiên tòa, ông T đại diện bà N cho rằng ông T1 đã vi phạm hợp đồng đặt cọc nên ông T1 bị mất 100.000.000 đồng tiền đặt cọc.
- Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Lê Văn T1, bà Lê Thị T2 và ông Huỳnh Tấn T5 đối với thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An; hủy chỉnh lý sang tên cho ông Huỳnh Tấn T5, do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đ cập nhật ngày 18/5/2020, trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 017603; số vào sổ cấp GCN: CS 04068 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 17/10/2019 cấp cho ông Lê Văn T1.
- Hủy biên bản về việc giải quyết tranh chấp thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích 9.878 m2 ngày 25/12/2019. Bởi vì từ ngày 25/12/2019 cho đến nay, ông Lê Văn A không trả cho bà N số tiền 1.900.000.000 đồng. Ông Lê Văn T1 không sang nhượng thửa đất số 114 cho ông Lê Văn A mà sang nhượng đất cho ông Huỳnh Tấn T5. Như vậy ông A và ông T1 đã vi phạm cam kết.
Bị đơn ông Lê Văn A trình bày tại biên bản ghi lời khai ngày 28/4/2022; bản tự khai ngày 28/4/2022 có nội dung như sau:
Bà Nguyễn Thị N có vay của tôi số tiền 400.000.000 đồng, lãi suất 2%/tháng có lập Biên bản thỏa thuận với nội dung bà N vay của tôi số tiền 400.000.000 đồng và có thể chấp 01 giấy đất do bà N đứng tên tại thửa 114, tờ bản đồ số 23 tọa lạc xã H, thời hạn vay 12 tháng. Để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, tôi và bà N có lập Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất thửa 114 tại Văn phòng C1.
Bà N chỉ thanh toán cho tôi được 02 tháng tiền lãi là 16.000.000 đồng thì đến nay không thanh toán nữa. Sau đó, ông Lê Văn T1 có hùn vốn với tôi 100.000.000 đồng để nhận chuyển nhượng thửa đất 114 của bà N với giá 2.400.000.000 đồng. Bà N nhận trực tiếp 100.000.000 đồng của ông T1 và lập hợp đồng chuyển nhượng QSD đất tại Văn phòng C1 (nay là Văn phòng C1) do tôi là người đại diện cho bà N.
Tôi không có giao thêm tiền gì cho bà N nữa, sau khi lập hợp đồng chuyển nhượng với bà N thì ông T1 tiếp tục chuyển nhượng thửa đất 114 cho người khác, tôi không biết chuyển nhượng cho ai. Tất cả việc chuyển nhượng do ông T1 quyết định. Hiện nay thửa đất 114 do bà N và chồng bà N là ông Văn H đang quản lý.
Tôi đồng ý hủy hợp đồng ủy quyền giữa tôi và bà N, đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng QSD đất do tôi đại diện cho bà N với ông Lê Văn T1 tại thửa đất 114, tôi đồng ý nhận lại số tiền vay bà N trả 400.000.000 đồng và yêu cầu bà N trả lãi suất 1%/tháng kể từ tháng 11/2019 cho đến nay.
Tại biên bản làm việc giải quyết tranh chấp thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xà H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích 9.878 m2 ngày 25/12/2019, tại Công an huyện Đ, bà N đồng ý chuyển nhượng đất cho ông Lê Văn T1 nên tôi không liên quan gì đến thửa đất trên. Do đó tôi không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà N.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn H trình bày bản tự khai ngày 10/4/2023:
Ông H là chồng của bà N, hôn nhân vẫn đang tồn tại. Ông H thống nhất với yêu cầu khởi kiện của bà N và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N, do bận công việc nên ông H xin vắng mặt sơ thẩm và phúc thẩm. Đề nghị Tòa án gửi văn bản tố tụng và bản án cho ông H thông qua bà N.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Chí Q, ông Võ Hoàng L trình bày bản tự khai ngày 10/4/2023:
Ông L, ông Q là con của bà Nguyễn Thị N và ông Võ Văn H. Ông L, ông Q thống nhất yêu cầu khởi kiện của mẹ chúng tôi và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của mẹ chúng tôi, do bận công việc nên ông L, ông Q xin vắng mặt sơ thẩm và phúc thẩm. Đề nghị Tòa án gửi văn bản tố tụng và bản án cho ông L, ông Q thông qua bà N.
Tại bản tự khai ngày 22/3/2021 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng C1 trình bày: Ngày 28/8/2019, Văn phòng C1 có chứng nhận hợp đồng ủy quyền đối với thửa số 114, tờ bản đồ 23, địa chỉ thửa đất xã H, huyện Đ, tỉnh Long An giữa bà Nguyễn Thị N và ông Lê Văn A. Việc chứng nhận hợp đồng ủy quyền nêu trên theo đúng trình tự thủ tục luật định, do bận việc nên xin vắng mặt.
Tại Công văn số 05/CV-VPCC ngày 08/02/2023 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng Trần Văn C trình bày: Ngày 09/9/2019, Văn phòng C1 (hiện nay là Văn phòng C1) có chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị N (do ông Lê Văn A đại diện) và ông Lê Văn T1 đối với thửa số 114, tờ bản đồ 23, địa chỉ thửa đất xã H, huyện Đ, tỉnh Long An. Việc chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng nêu trên theo đúng trình tự thủ tục luật định, do bận việc nên xin vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T1 trình bày tại Bản ý kiến năm 2022 (không ghi ngày tháng) có nội dung như sau:
Ngày 29/10/2019, bà N có viết cho tôi hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, có sự chứng kiến của ông A và ông Phạm Văn L1. Điều này chứng tỏ ý chí của bà N và ông A đều đồng tình chuyển nhượng đất cho tôi.
Bà N yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà N có đại diện là ông A ký với tôi tại Văn phòng C1 vào ngày 09/9/2019. Tôi không đồng ý vì ký kết theo quy định pháp luật. Hơn nữa trong biên bản làm việc tại Công an huyện Đ giữa tôi với ông A và bà N thống nhất công nhận hợp đồng chuyển nhượng thửa số 114, tờ bản đồ 23, địa chỉ thửa đất xã H, huyện Đ, tỉnh Long An và nhất trí chuyển nhượng cho tôi.
Do bận công việc nên ông T1 xin vắng mặt Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T2 là vợ ông Lê Văn T1 vắng mặt không có văn bản trình bày ý kiến.
Do bận công việc nên bà T2 xin vắng mặt Tại Công văn số 24/CV-VPCC ngày 19/3/2021 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng Võ Văn N1 trình bày: Ngày 14/01/2020, ông Lê Văn T1 và bà Lê Thị T2 yêu cầu Văn phòng Công chứng chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đối với thửa số 114, tờ bản đồ 23, địa chỉ thửa đất xã H, huyện Đ, tỉnh Long An cho ông Huỳnh Văn T3. Việc chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng nêu trên theo đúng trình tự thủ tục luật định, do bận việc nên xin vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Tấn T5 trình bày tại biên bản ghi lời khai ngày 06/7/2022 và ngày 26/6/2023 có nội dung như sau:
Ngày 14/01/2020, tại Phòng C3, ông T5 và ông T1, bà T2 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa số 114, tờ bản đồ số 23, diện tích 9.878 m2, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, giá chuyển nhượng là 1.600.000.000 đồng. Ông T5 đã giao cho ông T1, bà T2 1.600.000.000 đồng tại phòng công chứng, khi giao tiền hai bên không làm biên nhận, việc giao nhận có mặt ông T5, ông T1, bà T2. Ông T1 đã giao đất cho ông T5 vào ngày 14/01/2020, việc giao đất không làm biên bản bàn giao, lúc đó là đất trống không có nhà cửa của bà N, khoảng một năm sau thì bà N mới cất nhà, sinh sống trên đất. Từ đó đến nay, ông T5 không cho ai thuê, không canh tác đất. Ông T5 có yêu cầu ông T1 tháo dỡ nhà. Ông T1 cứ hẹn lần hẹn lượt cho đến nay.
Ông T5 và Đặng Nha T4, sinh năm 1969, cưới nhau hơn 30 năm, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, tỉnh Long An ngày 21/8/1999, hôn nhân vẫn đang tồn tại. Hiện tại vợ chồng tôi cư trú tại Ấp B, xã B, huyện Đ, tỉnh Long An.
Bà N vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Lê Văn T1, bà Lê Thị T2 với ông Huỳnh Tấn T5 đối với thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An. Hủy chỉnh lý sang tên cho ông Huỳnh Tấn T5, do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đ cập nhật ngày 18/5/2020, trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 017603; số vào sổ cấp GCN: CS 04068 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 17/10/2019 cấp cho ông Lê Văn T1, thì ông T5 không đồng ý. Do bận công việc nên ông T5 xin vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đặng Nha T4 là vợ ông Huỳnh Tấn T5 vắng mặt không có văn bản trình bày ý kiến.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quốc S vắng mặt không có văn bản trình bày ý kiến.
Những người làm chứng Nguyễn Sinh Tú N2, Nguyễn Văn M, Phạm Văn X, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Văn N3 trình bày:
Vợ chồng bà Nguyễn Thị N, ông Võ Văn H và hai con tên Võ Chí Q, Võ Hoàng L, cư trú trên thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, từ năm 2010 cho đến nay. Năm 2010, gia đình bà N, ông H cất nhà lá để ở. Đến năm 2018, gia đình bà N xây nhà tường gạch, chưa tô.
Công văn số 1077/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 22/02/2023 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L có nội dung:
Thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An do UBND huyện Đ cấp cho bà Nguyễn Thị N ngày 20/12/1999.
Ngày 09/9/2019, bà N (do ông Lê Văn A đại diện) lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông Lê Văn T1 tại Văn phòng C1. Ngày 17/10/2019, ông T1 được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Việc cấp giấy cho ông Thế là đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục.
Công văn số 359/VPĐKĐĐ-HCTH ngày 21/02/2023 của Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh L có nội dung:
Thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh L cấp cho ông T1 ngày 17/10/2019.
Ngày 14/01/2020, ông T1 cùng vợ là bà Lê Thị T2 lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông Huỳnh Tấn T5 tại Văn phòng C1. Ngày 18/5/2020, ông T5 đứng tên trang biến động, là đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục.
Công văn số 576/VPĐKĐĐ-HCTH ngày 02/3/2023 của Văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện Đ có nội dung:
Thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An do ông Huỳnh Tấn T5 đứng tên, từ tháng 5 nằm 2020 đến nay không có đăng ký giao dịch bảo đảm.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phát biểu quan điểm như sau:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thu ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; các đương sự có mặt đã chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Qua yêu cầu khởi kiện của đương sự, Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hợp đồng đặt cọc; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hủy chỉnh lý sang tên”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An theo thủ tục sơ thẩm, được quy định tại Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2]. Về vắng mặt của các đương sự: Ông Lê Văn A, ông Lê Văn T1, bà Lê Thị T2, ông Huỳnh Tấn T5, ông Võ Chí Q, ông Vồ Hoàng L, ông Võ Văn H, Văn phòng C1, Văn phòng C1, Văn phòng C1 có đề nghị xin vắng mặt. Bà Đặng Nha T4, ông Nguyễn Quốc S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.
[1.3]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định. Đại diện nguyên đơn ông T có đề nghị không hoà giải nên quyết định đưa vụ án ra xét xử.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Theo Biên bản phiên họp về kiểm tra việc giao nhận, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 26/6/2023 và tại phiên tòa, nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện. Bị đơn không có yêu cầu phản tố. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập.
[2.2]. Tại phiên tòa, các đương sự có mặt không xuất trình, giao nộp thêm chứng cứ.
[2.3]. Yêu cầu khởi kiện của bà N:
- Xét biên bản thỏa thuận ngày 28/8/2019 được lập bằng giấy tay giữa bà Nguyễn Thị N và ông Lê Văn A có nội dung: Ông A đồng ý cho bà N mượn số tiền 400.000.000 đồng và bà N thế chấp thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, diện tích 9.878 m2, đất lúa, tọa lạc xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, thời hạn mượn 12 tháng, lãi suất 2%/tháng. Trong thời gian cầm 12 tháng, nếu có tiền thì chuộc lại lúc đó. Chúng tôi cam đoan lời kết này. Nếu ai vi phạm sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Và xét hợp đồng ủy quyền ngày 28/8/2019 được xác lập giữa bà Nguyễn Thị N và ông Lê Văn A, tại Văn phòng C1 có nội dung: Ông A được toàn quyền thay mặt và nhân danh bà N quản lý, sử dụng, cho thuê, thế chấp, đặt cọc, chuyển nhượng, nhận bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Xét thấy, tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 28/4/2022, ông Lê Văn A thừa nhận ngày 28/8/2019, ông A có cho bà N vay 400.000.000 đồng, thời hạn mượn 12 tháng, lãi suất 2%/tháng, bằng hình thức ký hợp đồng ủy quyền. Bà N đã trả cho ông A hai tháng tiền lãi là 16.000.000 đồng. Sự thừa nhận này của ông A phù hợp với biên bản thỏa thuận ngày 28/8/2019 được lập bằng giấy tay giữa bà N và ông A. Như vậy có đủ căn cứ kết luận hợp đồng ủy quyền ngày 28/8/2019 được xác lập giữa bà Nguyễn Thị N và ông Lê Văn A, tại Văn phòng C1 là giả tạo nhằm che đậy hợp đồng vay tài sản. Căn cứ Điều 117, Điều 122, Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N, vô hiệu Hợp đồng ủy quyền số 028123, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/8/2019 lập tại Văn phòng C1 giữa Nguyễn Thị N và ông Lê Văn A.
- Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/9/2019 được xác lập giữa bà Nguyễn Thị N (do ông Lê Văn A đại diện) và ông Lê Văn T1, tại Văn phòng C1 có nội dung: Bà N chuyển nhượng cho ông T1 thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, diện tích 9.878 m2, đất lúa, tọa lạc xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, giá chuyển nhượng 400.000.000 đồng.
Ông T1 cho rằng bà N đồng ý chuyển nhượng cho ông T1, còn bà N thì cho rằng bà N không chuyển nhượng đất cho ông Thế mà ông A tự ý chuyển nhượng đất cho ông T1.
Xét thấy, về giá trị đất chuyển nhượng không phù hợp với thực tế, cụ thể: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/9/2019, tại Văn phòng C1, có giá chuyển nhượng là 400.000.000 đồng. Tại Chứng thư thẩm định giá số 77/08/04/2022/TĐG LA-BĐS ngày 08/4/2022 của Công ty cổ phần T9 thì tổng giá trị thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích đo đạc thực tế 9.581,5 m2 và công trình xây dựng trên đất là 3.778.800.000 đồng. Việc giao dịch giữa bà N và ông T1 chỉ thực hiện trên giấy tờ. Ông T1 không trả cho bà N 400.000.000 đồng. Hiện tại, gia đình bà N đang quản lý sử dụng nhà và đất, không giao nhà và công trình trên đất cho ông T1.
Từ những nhận định trên có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N, vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị N (do ông Lê Văn A đại diện) và ông Lê Văn T1 đối với thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.
- Xét hợp đồng (viết tay) đặc cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 29/10/2019 được xác lập giữa bà Nguyên Thị N và ông Lê Văn T1 có nội dung: Bà N cam kết chuyển nhượng cho ông T1 thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, diện tích 9.878 m2, đất lúa, tọa lạc xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, giá chuyển nhượng 2.400.000.000 đồng. Cùng ngày 29/10/2019, ông T1 có đặt cọc cho bà N 100.000.000 đồng. Hẹn đến ngày 10/11 đưa tiếp 500.000.000 đồng. Trong vòng 10 ngày từ ngày 10/11/209 đến ngày 10/3/2020, hai bên ra phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng và ông T1 đưa tiếp 1.800.000.000 đồng.
Ông T1 cho rằng bà N đồng ý chuyển nhượng cho ông T1, còn bà N thì cho rằng bà N không chuyển nhượng đất cho ông Thế mà ông A tự ý chuyển nhượng đất cho ông T1.
Xét thấy, cùng một thửa đất số 114, ngày 09/9/2019, bà N (do ông A đại diện) và ông T1 ký hợp đồng chuyển nhượng. Đến ngày 29/10/2019 (01 tháng 20 ngày sau), bà N và ông T1 lại ký hợp đồng đặt cọc. Như vậy việc giao dịch giữa bà N và ông T1 không tuân theo trình tự thủ tục (theo quy định, hai bên phải ký hợp đồng đặt cọc trước, sau đó mới ký hợp đồng chuyển nhượng).
Mặt khác về giá trị đất chuyển nhượng không phù hợp với thực tế, cụ thể: Hợp đồng đặt cọc ngày 29/10/2019 có giá chuyển nhượng là 2.400.000.000 đồng. Tại Chứng thư thẩm định giá số 77/08/04/2022/TĐG LA-BĐS ngày 08/4/2022 của Công ty Cổ phần T9 thì tổng giá trị thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích đo đạc thực tế 9.581,5 m2 và công trình xây dựng trên đất là 3.778.800.000 đồng. Việc giao dịch giữa bà N và ông T1 chỉ thực hiện trên giấy tờ. Ông T1 chỉ đặt cọc cho bà N 100.000.000 đồng. Từ ngày 29/10/2019 cho đến nay, ông T1 không trả cho bà N số tiền 2.300.000.000 đồng. Hiện tại, gia đình bà N đang quản lý sử dụng nhà và đất, không giao nhà và công trình trên đất cho ông T1. Như vậy, ông T1 vi phạm hợp đồng đặt cọc nên bị mất cọc 100.000.000 đồng.
Từ những nhận định trên có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N, hủy hợp đồng đặt cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 29/10/2019 giữa Nguyễn Thị N và ông Lê Văn T1. Ông T1 vi phạm hợp đồng đặt cọc nên bị mất 100.000.000 đồng tiền đặt cọc, theo quy định tại Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Xét Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Lê Văn T1, bà Lê Thị T2 và ông Huỳnh Tấn T5 ngày 14/01/2020 tại Phòng C4 có nội dung: Vợ chồng ông T1, bà T2 chuyển nhượng cho ông T5 thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, diện tích 9.878 m2, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, giá chuyển nhượng là 100.000.000 đồng.
Ông T5 cho rằng ông T5 nhận chuyển nhượng đất của vợ chồng ông T1, bà T2 với giá chuyển nhượng là 1.600.000.000 đồng. Ông T5 đã giao cho ông T1, bà T2 1.600.000.000 đồng tại phòng công chứng, khi giao tiền hai bên không làm biên nhận, việc giao nhận có mặt ông T5, ông T1, bà T2. Ông T1 đã giao đất cho ông T5 vào ngày 14/01/2020, việc giao đất không làm biên bản bàn giao, lúc đó là đất trống không có nhà cửa của bà N, khoảng một năm sau thì bà N mới cất nhà, sinh sống trên đất. Từ đó đến nay, ông T5 không cho ai thuê, không canh tác đất. Ông T5 có yêu cầu ông T1 tháo dỡ nhà. Ông T1 cứ hẹn lần hẹn lượt cho đến nay. Tuy nhiên, ông T5 không có chứng cứ chứng minh đã giao tiền và nhận đất từ vợ chồng ông T1, bà T2. Trong khi đó, gia đình bà N quản lý sử dụng nhà đất và công trình trên đất từ năm 2010 cho đến nay (có những người hàng xóm sinh sống chung quanh thửa 114 làm chứng gồm: Nguyễn Sinh Tú N2, Nguyễn Văn M, Phạm Văn X, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Văn N3).
Mặt khác về giá trị đất chuyển nhượng không phù hợp với thực tế, cụ thể: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/01/2020, tại Văn phòng C1, có giá chuyển nhượng là 100.000.000 đồng. Ông T5 cho rằng nhận chuyển nhượng đất với giá 1.600.000.000 đồng. Tại Chứng thư thẩm định giá số 77/08/04/2022/TĐG LA-BĐS ngày 08/4/2022 của Công ty cổ phần T9 thì tổng giá trị thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích đo đạc thực tế 9.581,5 m2 và công trình xây dựng trên đất là 3.778.800.000 đồng. Như vậy việc giao dịch giữa ông T5 và vợ chồng ông T1, bà T2 chỉ thực hiện trên giấy tờ. Khi mua đất, ông T5 không hỏi ý kiến của gia đình bà N về tình trạng nhà đất, họ có tranh chấp khi ông T5 mua nhà đất hay không. Do đó, ông T5 không phải là người thứ ba ngay tình theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Từ những nhận định trên có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N, vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Lê Văn T1, bà Lê Thị T2 với ông Huỳnh Tấn T5 đối với thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, ngày 14/01/2020, tại Phòng C4.
- Xét Biên bản về việc giải quyết tranh chấp thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích 9.878 m2 ngày 25/12/2019, tại Công an huyện Đ có nội dung:
Vợ chồng bà N, ông H chuyển nhượng thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích 9.878 m2 ông Lê Văn A với số tiền 2.400.000.000 đồng.
Ông Lê Văn A có trách nhiệm đưa thêm cho bà N số tiền 1.900.000.000 đồng. Cụ thể vào ngày 15/01/2020 đưa 900.000.000 đồng, vào ngày 15/5/2020 đưa số tiền 1.000.000.000 đồng. Bà N được sinh sống canh tác tại thửa đất trên đến khi ông A đưa đủ số tiền sang nhượng đất. Nếu đến ngày 15/5/2019 bà N chưa nhận được đủ số tiền trên thì có quyền hủy tiền đặt cọc hoặc tự thương lượng với ông A.
Ông Nguyễn Quốc S có trách nhiệm đưa cho ông T1 số tiền 1.200.000.000 đồng, tiền lãi tự thỏa thuận theo hợp đồng.
Ông Lê Văn A có trách nhiệm đưa lại cho ông Lê Văn T1 số tiền 100.000.000 đồng (tiền đặt cọc ông T1 đã đặt cọc cho bà N). Ông A đưa cho ông T1 23.077.000 đồng (tiền đóng thuế sang nhượng), bà N đưa cho ông T1 23.077.000 đồng (tiền đóng thuế sang nhượng).
Ông Lê Văn T1 có trách nhiệm sang nhượng quyền sử dụng đất trên lại cho ông Lê Văn A (khi nhận đủ tiền từ ông S, ông A, bà N) có viết giấy giao nhận tiền.
Xét thấy, tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 28/4/2022, ông Lê Văn A cho rằng ông Lê Văn T1 có hùn vốn với ông A 100.000.000 đồng để nhận chuyển nhượng thửa đất 114 của bà N với giá 2.400.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại bản tự khai ngày 28/4/2022, ông A nêu bà N đồng ý chuyển nhượng đất cho ông Lê Văn T1. Như vậy lời trình của ông A là mâu thuẫn với nhau và mâu thuẫn với Biên bản về việc giải quyết tranh chấp thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích 9.878 m2 ngày 25/12/2019, tại Công an huyện Đ.
Tại Bản ý kiến năm 2022 (không ghi ngày tháng), ông T1 cho rằng trong biên bản làm việc tại Công an huyện Đ giữa ông T1 với ông A và bà N thống nhất công nhận hợp đồng chuyển nhượng thửa số 114, tờ bản đồ 23, địa chỉ thửa đất xã H, huyện Đ, tỉnh Long An và nhất trí chuyển nhượng cho ông TL Như vậy, lời trình bày của ông Thế 1 mâu thuẫn với Biên bản về việc giải quyết tranh chấp thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích 9.878 m2 ngày 25/12/2019, tại Công an huyện Đ.
Bởi vì, tại Công an huyện Đ, các đương sự thỏa thuận vợ chồng bà N, ông H chuyển nhượng thửa đất số 114 cho ông Lê Văn A với số tiền 2.400.000.000 đồng. Trừ số tiền 400.000.000 đồng mà ông A cho bà N vay và số tiền 100.000.000 đồng bà N đã nhận cọc của ông TL Tổng cộng là 500.000.000 đồng nên ông Lê Văn A có trách nhiệm đưa thêm cho bà N số tiền 1.900.000.000 đồng. Tổng cộng là 2.400.000.000 đồng.
Ngoài ra, Biên bản về việc giải quyết tranh chấp thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích 9.878 m2 ngày 25/12/2019, tại Công an huyện Đ thì ông Lê Văn A có trách nhiệm đưa thêm cho bà N số tiền 1.900.000.000 đồng. Cụ thể vào ngày 15/01/2020 đưa 900.000.000 đồng, vào ngày 15/5/2020 đưa số tiền 1.000.000.000 đồng. Tuy nhiên, từ đó cho đến nay ông A không trả cho bà N số tiền nêu trên. Mặt khác, Biên bản về việc giải quyết tranh chấp thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích 9.878 m2 ngày 25/12/2019, tại Công an huyện Đ thì ông Lê Văn T1 có trách nhiệm sang nhượng quyền sử dụng đất trên lại cho ông Lê Văn A. Tuy nhiên, ông T1 lại chuyển nhượng đất cho ông T5. Như vậy, ông A và ông T1 đã vi phạm thỏa thuận ngày 25/12/2019, tại Công an huyện Đ.
Từ những nhận định trên có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N, hủy biên bản về việc giải quyết tranh chấp thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích 9.878 m2 lúc 09 giờ ngày 25/12/2019, tại Công an huyện Đ.
Về hậu quả hợp đồng vô hiệu: Buộc bà N trả cho ông A số tiền 400.000.000 đồng. Ông S, ông T1, ông T5 không yêu cầu xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu nên Hội đồng xét xử không xem xét (theo phần III Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/04/2017 của Tòa án nhân dân tối cao về một số vấn đề nghiệp vụ). Ông S, ông T1, ông T5 được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án dân sự khác.
- Bà N không yêu cầu số tiền lãi 16.000.000 đồng đã trả cho ông A nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 017603; số vào sổ cấp GCN: CS 04068 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho ông Lê Văn T1 ngày 17/10/2019; hủy chỉnh lý sang tên cho ông Huỳnh Tấn T5, do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đ cập nhật ngày 18/5/2020, trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 017603; số vào sổ cấp GCN: CS 04068 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 17/10/2019 cấp cho ông Lê Văn T1, thuộc trường hợp cấp thông qua giao dịch, không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt. Theo Công văn 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì không cần hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 017603; số vào sổ cấp GCN: CS 04068 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho ông Lê Văn T1 ngày 17/10/2019; hủy chỉnh lý sang tên cho ông Huỳnh Tấn T5, do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đ cập nhật ngày 18/5/2020 và không đưa cơ quan cấp quyền sử dụng đất là Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L, Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh L tham gia tố tụng.
Văn phòng đăng ký đất đai, C5, cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
[3]. Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên được chấp nhận.
[4]. Về chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ: Bà N đã nộp tạm ứng 32.500.000 đồng chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ; buộc ông A phải chịu chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ là 32.500.000 đồng, để hoàn trả cho bà N.
[5]. Về án phí: Buộc ông A phải chịu 900.000 đồng án phí; buộc ông T1 phải chịu 900.000 đồng án phí; buộc ông T5 phải chịu 300.000 đồng án phí; buộc bà N phải chịu 20.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ 1.200.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0006772 ngày 03/11/2020, biên lai số 0006773 ngày 03/11/2020, biên lai số 0008440 ngày 10/4/2023 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa; bà N phải nộp tiếp 18.800.000 đồng, sung ngân sách nhà nước, theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 5, Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 117, Điều 122, Điều 124, Điều 131, Điều 133, Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị N đối với bị đơn ông Lê Văn A về việc “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hợp đồng đặt cọc; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hủy chỉnh lý sang tên”.
- Vô hiệu Hợp đồng ủy quyền số 028123, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/8/2019 lập tại Văn phòng C1 giữa Nguyễn Thị N và ông Lê Văn A.
- Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/9/2019 lập tại Văn phòng C1 giữa bà Nguyễn Thị N (do ông Lê Văn A đại diện) và ông Lê Văn T1, đối với thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.
- Hủy hợp đồng đặc cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 29/10/2019 giữa Nguyễn Thị N và ông Lê Văn T1 .
- Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/01/2020 lập tại Văn phòng công chứng Võ Văn N1 giữa vợ chồng ông Lê Văn T1, bà Lê Thị T2 và ông Huỳnh Tấn T5 đối với thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.
- Hủy biên bản về việc giải quyết tranh chấp thửa đất số 114, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, diện tích 9.878 m2 vào lúc 09 ngày 25/12/2019, tại Công an huyện Đ.
Buộc ông T5 có trách nhiệm nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CT 017603, số vào sổ cấp GCN: CS 04068 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 17/10/2019, ông T5 đứng tên trang 3 ngày 18/5/2020, cho Cơ quan thi hành án.
Bà Nguyễn Thị N có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh và cấp quyền sử dụng đất đúng hiện trạng và diện tích đất thực tế sử dụng theo đúng quy định của pháp luật về đất đai. Văn phòng đăng ký đất đai, C5, cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
Buộc bà N trả cho ông A số tiền 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng.
2. Về chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc ông A phải nộp chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ là 32.500.000 đồng, để hoàn trả cho bà N.
Khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên có nghĩa vụ chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 tương ứng với thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí: Buộc ông A phải chịu 900.000 đồng án phí; buộc ông T1 phải chịu 900.000 đồng án phí; buộc ông T5 phải chịu 300.000 đồng án phí; buộc bà N phải chịu 20.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ 1.200.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0006772 ngày 03/11/2020, biên lai số 0006773 ngày 03/11/2020, biên lai số 0008440 ngày 10/4/2023 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa; bà N phải nộp tiếp 18.800.000 đồng, sung ngân sách nhà nước.
4. Án xử sơ thẩm công khai, đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng ủy quyền số 213/2023/DS-ST
Số hiệu: | 213/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về