Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng và thế chấp tài sản số 04a/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 04A/2024/DS-PT NGÀY 18/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ THẾ CHẤP TÀI SẢN

Trong ngày 18 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 99/2023/TLST-DS ngày 08 tháng 11 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 204/2023/QĐPT-DS ngày 20 tháng 12 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/QĐPT-DS ngày 04 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Q. (Tên viết tắt là V1).

Địa chỉ: Tầng A, 2, Tòa nhà S P, phường B, quận A, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hàn Ngọc V - Chức danh: Tổng giám đốc. Người Đại diện theo ủy quyền: Ông Hà Hoàng H. Chức vụ: Giám đốc Trung tâm Q1 - Khối Ngân hàng bán lẻ - V1.

Người được Ông Hà Hoàng H ủy quyền lại: Ông Lê Nhân C, ông Hoàng Đức M - Cán bộ Ngân hàng TMCP Q. Địa chỉ: V1 - Bà T, số F B, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Ông Hoàng Đức M có mặt.

- Bị đơn: Chị Trương Thị L, sinh năm 1978 và anh Hoàng Văn T1, sinh năm 1979. Cùng địa chỉ: Thôn Q (nay là thôn T), xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt không có lý do.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị H1, sinh năm 1952. Địa chỉ: Thôn Q (nay là thôn T), xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

2. Chị Hoàng Thị T2, sinh năm 1974. Nơi ĐKTT: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Địa chỉ hiện tại: Thôn T, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

3. Anh Hoàng Văn C1, sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn T (nay là thôn T), xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

4. Chị Hoàng Thị H2, sinh năm 1977. Địa chỉ: Thôn Đ (nay là thôn T), xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

5. Anh Hoàng Văn T1, sinh năm 1979. Địa chỉ: Thôn Q (nay là thôn T), xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

6. Anh Hoàng Văn K, sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn T (nay là thôn T), xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt không có lý do.

Người kháng nghị: Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình tố tụng tại tòa án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền lại của nguyên đơn khai:

Ngày 24/6/2020, Ngân hàng TMCP Q VIB (viết tắt là Ngân hàng) có ký kết hợp đồng cấp tín dụng số 4268067.20 và giải ngân cho anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L số tiền 615.000.000đ theo đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 4268067 (2).20 ngày 25/5/2021. Thời hạn vay là 12 tháng từ ngày 26/5/2021 đến ngày 25/5/2022. Lãi suất thỏa thuận là 9%/năm và có điều chỉnh theo quyết định của Ngân hàng. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn. Mục đích phục vụ kinh doanh hàng hải sản.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 1078 tờ bản đồ số 128-79 tại thôn T, xã Q đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Lê Thị H1 số co 185462, được thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 5149852.20 ngày 24/6/2020 được công chứng tại Văn phòng C2 số 2012/2020/VPCCHG quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 24 tháng 6 năm 2020 và được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã H ngày 24/6/2020. Tài sản trên đất được thế chấp theo Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 1046519.20 ngày 24/6/2020 tuy nhiên không được công chứng và không đăng ký giao dịch bảo đảm.

Quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, chị Trương Thị L và anh Hoàng Văn T1 đã trả được số tiền gốc và lãi là 60.735.469 đồng tính đến ngày 07/7/2023. Đến hạn trả nợ ngày 25/5/2022, Ngân hàng yêu cầu chị L và anh T1 trả toàn bộ số tiền gốc và lãi nhưng anh T1 và chị L không trả, vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.

Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số tiền nợ gốc của anh T1 và chị L sang nợ quá hạn từ ngày 25/5/2022. Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu:

- Buộc chị Trương Thị L và anh Hoàng Văn T1 phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP Q (V1) tổng số tiền tạm tính đến ngày 07/7/2023 là 706.543.542 đồng. Tiếp tục tính lãi theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi trả hết nợ.

- Trường hợp chị Trương Thị L và anh Hoàng Văn T1 không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền kê biên phát mại các tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 1078 tờ bản đồ số 128-79 tại thôn Q (nay là thôn T), xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

- Toàn bộ số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm được dùng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ cho bên vay vốn với Ngân hàng. Trường hợp nếu số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán hết nợ thì bên vay vốn vẫn phải có nghĩa vụ trả hết khoản nợ còn lại cho Ngân hàng.

Tại biên bản lấy lời khai, quá trình tố tụng tại tòa án, bị đơn chị Trương Thị L khai:

Chị Trương Thị L và anh Hoàng Văn T1 có vay nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Q theo Hợp đồng tín dụng số 4268067.20 ngày 24/6/2020 số tiền 615.000.000 đồng, mục đích vay nợ để góp vốn chung thuyền đánh cá. Thời hạn vay từ ngày 26/5/2021 đến ngày 25/5/2022. Ngân hàng dã giải ngân số tiền trên cho vợ chồng chị. Hàng tháng, chị T và anh T1 vẫn trả tiền lãi đầy đủ nhưng khi đến hạn Ngân hàng yêu cầu trả tiền gốc vay thì chị L và anh T1 không thực hiện được việc trả nợ gốc. Chị T thừa nhận chữ ký của chị L và điểm chỉ của anh T1 trong hợp đồng tín dụng là của chị L và anh T1 trực tiếp ký tên. Để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ của chị L và anh T1, bà Lê Thị H1 là mẹ đẻ của anh T1 có sử dụng quyền sử dụng đất thửa đất số 1078, tờ bản đồ số 128-79, tại thôn Q (nay là thôn T), xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Lê Thị H1 thế chấp quyền sử dụng đất cho Ngân hàng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ của chị L và anh T1. Tài sản trên đất có công trình nhà ở 2 tầng của chị L và anh T1 xây dựng năm 2018. Công trình nhà ở của bà Lê Thị H1 và ông Hoàng Văn D (đã chết ngày 26/9/2007) hiện do bà H1 đang quản lý, sử dụng. Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu chị và anh T1 trả nợ, chị L đề nghị Ngân hàng cho chị trả góp mỗi tháng 5.000.000 đồng.

Bị đơn anh Hoàng Văn T1 đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không có mặt do đó không có lời khai của anh Hoàng Văn T1.

Tại biên bản lấy lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bà Lê Thị H1 trình bày:

Bà Lê Thị H1 đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án và đã được xem tài liệu là Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số số 5149852.20 ngày 24/6/2020 được công chứng tại Văn phòng C2 và Hợp đồng thế chấp tài sản số 1046519.20 ngày 24/6/2020. Do mắt kém nên bà H1 không có ý kiến gì về chữ ký “Lê Thị H1” trong những hợp đồng này. Ban đầu chị L và anh T1 vay nợ Ngân hàng thì bà H1 không biết. Sau khi có thông báo của Ngân hàng bà mới biết việc vay nợ của anh T1 và chị L. Thửa đất số 1078 tờ bản đồ số 128-79 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số co 185462 ngày 27/8/2018 đứng tên chủ sử dụng đất Lê Thị H1. Tài sản trên đất có công trình nhà cấp 4 lợp ngói, tường xây vôi là nhà ở của bà Lê Thị H1, nhà 2 tầng xây dựng năm 2018 là nhà của chị Trương Thị L và anh Hoàng Văn TL Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm để trả nợ cho Ngân hàng thì bà H1 không đồng ý.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hoàng Thị T2, anh Hoàng Văn C1, chị Hoàng Thị H2, anh Hoàng Văn T1 và anh Hoàng Văn K không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án nên không có lời khai.

- Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú của chị Hoàng Thị T2: Chị T2 có noi đăng ký thường trú tại thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Hiện đang sinh sống tại thôn T, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An nhưng không có đăng ký tạm trú.

- Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án đối với thửa đất số 1078, tờ bản đồ số 128-79 tại thôn T, xã Q. Thửa đất số 1078, tờ bản đồ số 128-79 nay tương ứng với thửa đất số 266, tờ bản đồ số 28, diện tích 198,7m2 theo bản đồ địa chính dạng số. Tứ cận thửa đất như sau: Phía Đông giáp dường giao thông dài 14,2m; phía Tây giáp đất ông Trương Văn H3 dài 11,62m; phía Bắc giáp đất ông Trương Văn H3 dài 14m; phía Nam giáp đất ông Trần Đình H4 dài 14,72m. Phần diện tích tăng thêm so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 63,7m2 là sai số do đo đạc. Tài sản trên đất có nhà 2 tầng xây dựng năm 2018 có kích thước 14,72m x 3,5m của anh T1 chị L. Nhà ở cấp 4 tường xây vôi mái ngói gồm 02 nhà liền kề hiện đang do bà Lê Thị H1 quản lý sử dụng, có kích thước 8,8m x 4,5m; 4,7m x 3,3m và các công trình xây dựng khác như giếng nước, ô tắm.

Với nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 7/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An đã quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, 57, 158; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của BLTTDS;

Căn cứ các Điều 117, 122, 280, 299, 307, 317, 318, 319, 320, 323, 325, 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự 2015; Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm được sửa đổi bổ sung theo Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ;

Căn cứ vào Án lệ số 11/2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp;

Căn cứ khoản 16 Điều 4, Điều 91 và Điều 95 Luật các Tổ chức Tín dụng;

Căn cứ khoản 2 Điều 27, khoản 1 Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Điều 7 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Q.

2. Buộc anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng tổng số tiền gốc và lãi tính đến ngày 07/7/2023 là 706.543.542 đồng. Trong đó tiền gốc là 610.000.000 đồng, tiền lãi là 286.892 đồng, tiền lãi quá hạn là 96.256.650 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án, anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng cấp tín dụng số 4268067.20 ngày 24/6/2020 và đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 4268067 (2).20 ngày 25/5/2021. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thì lãi suất mà anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo Quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng.

Trường hợp anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là: quyền sử dụng đất thửa đất số 1078, tờ bản đồ số 128-79 diện tích 135m2 đất ở (nay là thửa đất số 266, tờ bản đồ số 28, diện tích 198,7m2 theo bản đồ địa chính dạng số) tại thôn Q (nay là thôn T), xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An, thời hạn sử dụng lâu dài. Đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 185462 ngày 27 tháng 8 năm 2018 mang tên bà Lê Thị H1. Đã được thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 5149852.20 ngày 24/6/2020 được công chứng tại Văn phòng C2 số 2012/2020/VPCCHG quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 24 tháng 6 năm 2020, đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã H ngày 24/6/2020.

Trường hợp số tiền thu được từ việc xử lý tài sản thế chấp không đủ trả nợ cho Ngân hàng thì anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ cho đến khi trả xong toàn bộ số nợ.

Nếu anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ theo bản án thì Ngân hàng có nghĩa vụ trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số co 185462 cấp ngày 27 tháng 8 năm 2018 bản gốc cho bà Lê Thị H1.

3. Tuyên bố hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 1046519.20 ngày 24/6/2020 giữa Ngân hàng TMCP Q và bà Lê Thị H1 là vô hiệu.

4. Về xử lý tài sản gắn liền với đất khi thi hành án:

4.1. Kê biên phát mãi tài sản nhà ở cấp 4 (gồm 2 nhà liền kề và công trình xây dựng khác gắn liền với đất) là tài sản chung của bà Lê Thị H1, chị Hoàng Thị T2, anh Hoàng Văn C1, chị Hoàng Thị H2, anh Hoàng Văn T1, anh Hoàng Văn K gắn liền với thửa đất số 1078 tờ bản đồ số 128-79 tại thôn T, xã Q khi thi hành án và trả lại giá trị bằng tiền cho bà H1, chị T2, anh Cl, chị H2, anh T1, anh K theo giá trị khi thi hành án. Dành quyền ưu tiên mua phần quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất cho bà Lê Thị H1, chị Hoàng Thị T2, anh Hoàng Văn C1, chị Hoàng Thị H2, anh Hoàng Văn T1, anh Hoàng Văn K.

4.2. Kê biên phát mãi tài sản đối với nhà ở 2 tầng trên thửa đất số 1078, tờ bản đồ số 128-79 của anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L khi thi hành án.

5. Về án phí, chi phí tố tụng khác: Buộc chị Trương Thị L và anh Hoàng Văn T1 phải chịu án phí dân sự là 32.261.000 đồng. Ngân hàng thương mại cổ phần Q phải chịu 300.000 đồng tiền án phí tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí còn thừa cho Ngân hàng thương mại cổ phần Q số tiền 15.600.000 đồng theo biên lai thu số 0003616 ngày 11 tháng 11 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai.

Bản án còn quyết định về nghĩa vụ thi hành án, quyền thỏa thuận thi hành án, quyền kháng cáo.

Ngày 04 tháng 8 năm 2023, Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 1544/QĐ-VKS-DS đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai vì có các vi phạm sau: Vi phạm trong việc xác định phạm vi khởi kiện, xác định tài sản thế chấp, kê biên tài sản trên đất, tuyên lãi suất chậm thi hành án. Đề nghị sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên nội dung kháng nghị.

Nguyên đơn đồng ý với nội dung kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử phúc thẩm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn chấp hành các quy định tai Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án.

- Về thủ tục kháng nghị: Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An kháng nghị trong thời hạn luật định, hình thức và nội dung của Quyết định kháng nghị được thực hiện đúng quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật tố tụng dân sự nên được Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý, giải quyết là đúng pháp luật.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 chấp nhận kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, sửa bản án dân sự sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai về những nội dung đã phân tích.

- Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ngân hàng tự nguyện chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ nên miễn xét.

- Về án phí: Buộc anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí còn thừa cho ngân hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Quyết định kháng nghị: về thời hạn, hình thức, nội dung Quyết định kháng nghị trong hạn luật định và đúng quy định pháp luật nên được chấp nhận để xem xét.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phiên tòa được mở lần thứ hai; Bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, Quyết định hoãn phiên tòa đầy đủ và hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ là đúng với quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét kháng các nội dung kháng nghị:

[3.1] Vi phạm trong việc xác định phạm vi khởi kiện:

Trong Đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Q (V1) khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn chị Trương Thị L, anh Hoàng Văn T1 thanh toán số tiền 706.543.542 đồng, nếu bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ; bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu phản tố, không có yêu cầu độc lập về việc tuyên bố hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 1046519.20 ngày 24/6/2020 giữa Ngân hàng và bà Lê Thị H1 vô hiệu. Khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định "Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó". Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm vẫn tuyên hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất số 1046519.20 ngày 24/6/2020 vô hiệu và buộc Ngân hàng phải chịu 300.000đ án phí tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không đúng với quy định đã viện dẫn trên.

[3.2] Vi phạm trong việc xác định tài sản thế chấp:

Các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thể hiện tài sản trên đất gồm nhà ở cấp 4 (2 nhà liền kề, công trình xây dựng khác trên đất) và nhà 2 tầng thuộc quyền sở hữu của bà Lê Thị H1 và của chị Hoàng Thị T2, anh Hoàng Văn C1, chị Hoàng Thị H2, anh Hoàng Văn K, anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L.

Mục 2.2 Điều 2 Hợp đồng thế chấp số 5149852.20 ngày 24/6/2020 thể hiện "tài sản thế chấp theo Hợp đồng này bao gồm nhưng không giới hạn các vật phụ, hoa lợi, lợi tức, các quyền phát sinh từ tài sản thế chấp, tài sản hay tiền đền bù... ". Căn cứ vào nội dung thỏa thuận nêu trên của các bên, có cơ sở xác định tài sản thế chấp bao gồm quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.

Theo Án lệ số 11/2017/AL thì “một bên thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng trên đất còn có tài sản thuộc sở hữu của người khác; hình thức và nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật” thì “Tòa án phải xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật”. “Bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà trên đất có nhà không thuộc sở hữu của người sử dụng đất” thì “khi giải quyết Tòa án phải dành cho chủ sở hữu nhà trên đất được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó nếu họ có nhu cầu”. Do đó, Bản án sơ thẩm tuyên kê biên phát mại tài sản nhà ở cấp 4 là tài sản chung của bà H1, chị T2, anh C1, chị H2, anh K, anh T1 gắn liền với thửa đất 1078 và trả lại giá trị bằng tiền cho các đương sự trên là không đúng với nội dung hướng dẫn nêu trên trên của Án lệ số 11/2017/AL. Bên cạnh đó, bản án sơ thẩm tuyên kê biên phát mại nhà cấp 4 và trả lại giá trị bằng tiền cho bà H1, chị T2, anh C1, chị H2, anh K, anh T1 nhưng không tuyên ai phải thanh toán số tiền này là thiếu sót, gây khó khăn cho công tác thi hành án.

[3.3] Vi phạm trong việc kê biên tài sản trên đất:

Theo quy định tại khoản 6 Điều 114; Điều 135 Bộ luật tố tụng dân sự thì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "kê biên tài sản đang tranh chấp" không thuộc trường hợp Tòa án được tự mình ra quyết định áp dụng, quá trình giải quyết vụ án cũng không có đương sự nào yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này, nên bản án sơ thẩm áp dụng biện pháp kê biên phát mại nhà cấp 4, nhà 2 tầng trên đất là không có cơ sở. Bên cạnh đó, bản án sơ thẩm tuyên kê biên phát mại tài sản nhà ở cấp 4 là tài sản chung của bà Lê Thị H1, chị Hoàng Thị T2, anh Hoàng Văn C1, chị Hoàng Thị H2, anh Hoàng Văn K, anh Hoàng Văn T1 và ngôi nhà 2 tầng của anh Hoàng Văn T1 gắn liền với thửa đất 1078, tờ bản đồ số 128-79 "khi thi hành án" là không chính xác vì việc kê biên tài sản khi thi hành án thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án, không thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử.

[3.4] Vi phạm trong việc tuyên lãi suất chậm thi hành án:

Trong vụ án này, giữa Ngân hàng và chị Trương Thị L, anh Hoàng Văn T1 ký kết Hợp đồng tín dụng số 4268067.20 ngày 24/6/2020 cho vợ chồng chị L, anh T1 vay số tiền 615.000.000 đồng. Hai bên có thỏa thuận về lãi suất. Tại điểm g, mục 1.4 Điều 1 Điều khoản và điều kiện cấp tín dụng (đính kèm Hợp đồng tín dụng) các bên đã thỏa thuận:

"Bất kỳ khoản tiền dư nợ gốc nào được cấp tín dụng theo tài liệu vay vốn đến hạn phải thanh toán mà bên được cấp tín dụng chưa thanh toán cho V1 sẽ là nợ quá hạn và sẽ chịu mức lãi suất bằng 150% của lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn ..., và được tính từ ngày khoản tiền dư nợ gốc đó đến hạn phải thanh toán cho đến ngày bên được cấp tín dụng thanh toán đầy đủ khoản tiền dư nợ gốc đó cho V1;

Bất kỳ khoản tiền lãi nào theo tài liệu vay vốn đến hạn phải thanh toán mà bên được cấp tín dụng chưa thanh toán cho V1 sẽ chịu mức lãi suất chậm trả bảng 10%/năm tính trên khoản tiền lãi chậm trả từ ngày khoản tiền lãi đó đến hạn phải thanh toán cho đến ngày bên được cấp tín dụng thanh toán đầy đủ khoản tiền lãi đó cho VIB;

Bất kỳ khoản tiền phí hoặc các khoản thanh toán nào khác theo tài liệu vay vốn đến hạn phải thanh toán mà bên được cấp tín dụng chưa thanh toán cho V1 sẽ chịu mức lãi suất chậm trả bằng 150% của lãi suất đang được áp dụng cho khoản tín dụng có liên quan ... hoặc lãi suất theo thông báo của V1 (nếu liên quan đến hoặc phát sinh theo các trường hợp khác quy định tại tài liệu vay vốn), và được tính từ ngày khoản tiền đó đến hạn phải thanh toán cho đến ngày bên được cấp tín dụng thanh toán đầy đủ khoản tiền đó cho V1”.

Ngoài ra, điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “... đối với trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên có thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015”. Bản án sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 07/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai quyết định: Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm các đương sự còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn "của số tiền nợ gốc chưa thanh toán" là không đúng về số tiền phải chịu lãi suất chậm trả theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP đã viện dẫn trên và không đúng nội dung các bên đã thỏa thuận tại điểm g mục 1.4 Điều 1 Điều khoản và điều kiện cấp tín dụng (đính kèm Hợp đồng tín dụng).

Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên tuy có những vi phạm pháp luật dân sự nhưng những vi phạm này cấp phúc thẩm có thể khắc phục được nên cần áp dụng khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng đã phân tích.

Quyết định kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An là có căn cứ nên được chấp nhận.

[3] Về án phí phúc thẩm: Không xem xét.

Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự 2015: Chấp nhận kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, sửa bản án sơ thẩm về cách tuyên nghĩa vụ xử lý tài sản thế chấp, thời điểm tính lãi suất chậm trả, nghĩa vụ chịu án phí của nguyên đơn khi không có yêu cầu hợp đồng thế chấp vô hiệu.

2. Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 57; Điều 158; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 117; Điều 122; Điều 280; Điều 299; Điều 307; Điều 317; Điều 318; Điều 319; Điều 320; Điều 323; Điều 325; Điều 463; Điều 466; Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015; Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm được sửa đổi bổ sung theo Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ.

- Căn cứ vào Án lệ số 11/2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp.

- Căn cứ khoản 16 Điều 4; Điều 91; Điều 95 Luật các Tổ chức Tín dụng.

- Căn cứ khoản 2 Điều 27; khoản 1 Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Điều 7 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Q (V1).

2. Buộc anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Q (V1) tổng số tiền gốc và lãi tính đến ngày 07/7/2023 là 706.543.542 đồng (bảy trăm linh sáu triệu năm trăm bốn mươi ba nghìn năm trăm bốn hai đồng). Trong đó tiền gốc là 610.000.000 đồng, tiền lãi là 286.892 đồng, tiền lãi quá hạn là 96.256.650 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Hợp đồng cấp tín dụng số 4268067.20 ngày 24/6/2020 và đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 4268067 (2).20 ngày 25/5/2021. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thì lãi suất mà anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo Quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Trường hợp anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất số 1078, tờ bản đồ số 128-79 diện tích 135m2 đất ở (nay là thửa đất số 266, tờ bản đồ số 28, diện tích 198,7m2 theo bản đồ địa chính dạng số) tại thôn Q (nay là thôn T), xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An, thời hạn sử dụng lâu dài. Đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số co 185462 ngày 27 tháng 8 năm 2018 mang tên bà Lê Thị H1. Đã được thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5149852.20 ngày 24/6/2020, được công chứng tại Văn phòng C2 số 2012/2020/VPCCHG quyến số 02 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 24 tháng 6 năm 2020, đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã H ngày 24/6/2020 để thu hồi nợ. Dành quyền ưu tiên mua phần quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất cho bà Lê Thị H1, chị Hoàng Thị T2, anh Hoàng Văn C1, chị Hoàng Thị H2, anh Hoàng Văn T1, anh Hoàng Văn K. Trường hợp số tiền thu được từ việc xử lý tài sản thế chấp không đủ trả nợ cho Ngân hàng thì anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ cho đến khi trả xong toàn bộ số nợ.

Nếu tiền xử lý tài sản thế chấp sau khi thanh toán các nghĩa vụ được bảo đảm vẫn còn và không có nghĩa vụ nào khác phải thanh toán thì Ngân hàng chuyển trả cho bên thế chấp.

Nếu anh Hoàng Văn T1 và chị Trương Thị L thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ theo bản án thì Ngân hàng có nghĩa vụ trả lại bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO 185462 cấp ngày 27 tháng 8 năm 2018 cho bà Lê Thị H1.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành dân sự.

3. Về án phí, chi phí tố tụng khác: Buộc chị Trương Thị L và anh Hoàng Văn T1 phải chịu án phí dân sự là 32.261.000 đồng. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng thương mại cổ phần Q số tiền 15.900.000 đồng, theo Biên lai thu số 0003616 ngày 11 tháng 11 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành ngay./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng và thế chấp tài sản số 04a/2024/DS-PT

Số hiệu:04a/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về