Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản số 24/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 24/2024/DS-ST NGÀY 30/09/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 36/2024/TLST- DS ngày 27 tháng 6 năm 2024 về việc: Tranh chấp Hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2024/QĐXXST- DS ngày 28/8/2024, quyết định hoãn phiên toà số 28/2024/QĐ-TA ngày 13/9/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H (H2) - Địa chỉ: B N, phường B, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Quốc T – Tổng Giám đốc Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Lê Tuấn G – Giám đốc Trung tâm xử lý nợ Miền B – Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H. Địa chỉ: Số A N , ph ườn g H, quận T, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo uỷ quyền lại:

- Ông Nguyễn Tiến B – Chuyên viên xử lý nợ – Trung tâm xử lý nợ Miền B – Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H.

- Ông Đỗ Văn P – Chuyên viên xử lý nợ – Trung tâm xử lý nợ Mi ền B – Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H.

Bị đơn: Ông Trần Văn H – sinh năm 1965 Bà L ê T hị P1 – sinh năm 1970 Bà Trần Thị S – sinh năm 1993 Đều trú tại: Thôn Q, xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Trần Văn H – sinh năm 1965 Bà Lê Thị P1 – sinh năm 1970 Đều trú tại: Thôn Q, xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương.

(Ông B có mặt. Ông H, bà P1, bà S đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ, tại phiên toà ông Nguyễn Tiến B là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Phát Triển Thành phố H đã cho ông T rần V ăn H và bà Lê Thị P1 vay tiền theo Hợp đồng sau: Hợp đồng tín dụng số 25833/22MB/HĐTD ngày 04/11/2022, đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán/sản phẩm - dịch vụ ngày 25/11/2022. Lãi suất theo hợp đồng tín dụng và thẻ tín dụng của ông H, bà P1 là thẻ Visa việtt platinum vay có tài sản bảo đảm lãi suất là 22%/năm, lãi suất thay đổi là 27%/năm. Số tiền ngân hàng đã giải ngân là 998.099.000 đồng. Tính đến 30/9/2024 ông H, bà P1 còn nợ ngân hàng số tiền nợ gốc là 998.099.000 đồng và tiền nợ lãi trong hạn là 1.000.374.880 đồng và nợ lãi quá hạn là 139.041.102 đồng. Sau đó Ngân hàng thống nhất giảm tiền lãi trong hạn và tiền lãi quá hạn cho ông H, bà P1 tổng là 909.415.982 đồng. Số tiền lãi trong hạn và lãi quá hạn còn lại ông H, bà P1 còn phải trả ngân hàng là 230.000.000 đồng (Trong đó lãi trong hạn là 200.000.000 đồng, lãi quá hạn là 30.000.000 đồng) tính đến ngày 30/9/2024.

Tài sản bảo đảm của khoản vay trên là: "Toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tọa lạc tại thửa đất số 200, tờ bản đồ số 26, địa chỉ thôn Q, xã N , hu y ện K , t ỉnh H ải D ương , diện tích 518m2; Tài sản gắn liền với đất là nhà ở riêng lẻ, diện tích sàn 61.7m', cấp hạng nhà ở 4, sở hữu riêng và nhà ở riêng lẻ, diện tích sàn 41.4m', cấp hạng nhà ở 4, sở hữu riêng theo Giấy chứng nhận QSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CV 647447, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 01582 do UBND h u yện K cấp ngày 01/12/2020 cho ông T rần Văn H và bà Lê T hị P1 . Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 25833/22MB/HĐBĐ ngày 15/11/2022 tại v ăn ph òng C, thành p hố H , tỉn h h ải D ương , số công chứng 5118/2022/HĐTC quyển số 01/TP/CC- SCC/HĐGD." Sau khi H2 cho ông Trần Văn H và bà L ê T hị P1 vay tiền theo hợp đồng tín dụng nêu trên, H2 tiếp tục cho bà Trần Thị S là con gái của ông T rần V ăn H và bà L ê Th ị P1 vay tiền theo Hợp đồng sau: Đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán/sản phẩm - dịch vụ ngày 27/12/2022. Số tiền giải ngân là:

692.000.000 đồng (Sáu trăm chín mươi hai triệu đồng). Thời hạn vay 60 tháng. Mục đích sử dụng vốn: vay tiêu dùng. Phương thức cho vay: phát hành thẻ tín dụng quốc tế. Dư nợ Đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán/sản phẩm - dịch vụ ngày 27/12/2022 của bà T rần T hị S tại H2. Lãi suất theo hợp đồng tín dụng và thẻ tín dụng của bà S là thẻ Visa việtt platinum vay có tài sản bảo đảm lãi suất là 22%/năm, lãi suất thay đổi là 27%/năm. Tính đến ngày 30/9/2024 bà S còn nợ ngân hàng số tiền nợ gốc là 692.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 650.572.430 đồng, lãi quá hạn là 95.280.378 đồng. Sau đó Ngân hàng N1 giảm lãi trong hạn và lãi quá hạn cho bà S là 595.852.808 đồng. Bà S còn phải trả số tiền lãi trong hạn và lãi quá hạn cho ngân hàng là 150.000.000 đồng (trong đó lãi trong hạn là 130.000.000 đồng, lãi quá hạn là 20.000.000 đồng) tính đến ngày 30/9/2024.

Sau ngày 30/9/2024 ông H, bà P1, bà S phải trả mức lãi suất là 1,1%/1 tháng trên số tiền nợ gốc còn nợ.

Để đảm bảo cho khoản vay của bà S thì ông H và bà P1 tiếp tục dùng tài sản bảo đảm đang thế chấp tại H2 để thế chấp cho khoản vay của bà S, cụ thể như sau: "Toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tọa lạc tại thửa đất số 200, tờ bản đồ số 26, địa chỉ thô n Q , xã N , h uy ện K , t ỉn h Hải D ươn g , diện tích 518m'; Tài sản gắn liền với đất là nhà ở riêng lẻ, diện tích sàn 61.7m, cấp hạng nhà ở 4, sở hữu riêng và nhà ở riêng lẻ, diện tích sàn 41.4m', cấp hạng nhà ở 4, sở hữu riêng theo Giấy chứng nhận QSDĐ quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CV 647447, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 01582 do UBND hu yện K cấp ngày 01/12/2020 cho ông T rần V ăn H và bà L ê T hị P1 . Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác số 29993/22MB/HĐBĐ ngày 30/12/2022 tại v ăn ph òng C , th ành phố  H , t ỉnh h ải D ương , số công chứng 5436/2022/HĐTC quyển số 01/TP/CC- SCC/HĐGD." Khi khoản vay của ông Trần V ăn H , bà P1 và bà Trần Thị S phát sinh nợ quá hạn, H2 đã gửi thông báo và nhiều lần làm việc yêu cầu ông Trần Văn H và bà Trần Thị S trả nợ cho Ngân hàng nhưng ông Trần V ăn H , bà Lê Thị P1 và bà Trần Thị S vẫn cố tình trốn tránh, chây ỳ không thanh toán theo các điều khoản đã ký với Ngân hàng. Ông H, bà P1, bà S chưa trả được ngân hàng khoản vay nợ gốc nào. Khoản vay nợ trên của ông H, bà P1 chuyển sang nợ quá hạn từ ngày 11/4/2023, khoản vay của bà S chuyển sang nợ quá hạn từ ngày 16/02/2023. Ngân hàng cũng đã gửi các thông báo về khoản vay nợ gốc, nợ lãi, phí cho ông H, bà P1, bà S được biết.

Ngân hàng yêu cầu ông T rần V ăn H , bà L ê T hị P1 phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ cho H2 tính đến ngày 30/9/2024 với số tiền nợ gốc là 998.099.000 đồng, tiền lãi trong hạn là 200.000.000 đồng, lãi quá hạn là 30.000.000 đồng. Buộc bà T rần Thị S phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ cho H2 tính đến ngày 30/9/2024 với số tiền nợ gốc là 692.000.000 đồng. Số tiền lãi trong hạn là 130.000.000 đồng, lãi quá hạn là 20.000.000 đồng. Nếu ông H, bà P1, bà S không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị xử lý tài sản là quyền sử dụng đất đã thế chấp tại ngân hàng.

Toàn bộ số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản thế chấp nêu trên được dùng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ của ông T rần V ăn H , bà L ê T hị P1 và bà T rần  T hị S đối với H2, sau khi trừ đi các chi phí phát sinh trong quá trình khởi kiện và xử lý tài sản. Nếu số tiền thu được từ bán/xử lý tài sản thế chấp nêu trên không đủ thanh toán hết khoản nợ thì ông Trần Văn H, bà L ê T hị P1 và bà T rần T hị S vẫn phải có nghĩa vụ trả hết khoản nợ còn lại tại H2 bằng nguồn thu và các tài sản hợp pháp khác.

Tại biên bản ghi lời khai ông Trần Vă n H trình bày: Ông đã nhận được thông báo thụ lý vụ án của Toà án. Ông đã trực tiếp thông báo và giao các văn bản tố tụng của Toà án cho bà P1, bà S nhưng vì công việc bận nên bà P1 và bà S không đến Toà án được. Ngày 04/11/2022 vợ chồng ông có ký hợp đồng tín dụng số 25833/22MB/HĐTD với ng ân h àn g TMCP p hát t ri ển th ành ph ố H để vay số tiền 998.099.000 đồng, thời hạn vay 60 tháng, mục đích vay tiêu dùng, tài sản đảm bảo cho khoản vay là toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 200 tờ bản đồ số 26 tại x ã N , huy ện K , t ỉ nh H ải D ương . Sau khi ngân hàng cho vay xong theo hợp đồng tín dụng nêu trên, ngân hàng lại tiếp tục cho con gái ông là T rần Thị S vay số tiền 692.000.000 đồng, với thời gian vay 60 tháng, mục đích để tiêu dùng và dùng diện tích đất trên để thế chấp. Sau khi vay nợ, ông bà có trả lãi được một thời gian, sau đó do làm ăn thua lỗ và không có khả năng thanh toán. Ngân hàng cũng đã thông báo cho ông, bà P1, bà S việc trả nợ và thông báo các khoản lãi, phí phát sinh sau khi ông bà không trả nợ. Đến nay ông xác định vợ chồng ông còn nợ ngân hàng khoản nợ gốc là 998.099.000 đồng, bà S còn nợ 692.000.000 đồng là đúng nhưng ông bà và bà S hiện không có khả năng thanh toán nên ông đề nghị Ngân hàng giảm lãi và giãn nợ cho vợ chồng ông để trả nợ dần. Đối với số tiền nợ lãi, phí của vợ chồng ông và bà S mà như ngân hàng khởi kiện thì ông hoàn toàn đồng ý và đề nghị Toà án giải quyết theo pháp luật. Vì công việc bận nên ông đề nghị Toà án giải quyết, xét xử vắng mặt ông.

Các chứng cứ, tài liệu Tòa án thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án: Tại biên bản xác minh tại Công an xã N thể hiện: Bà Lê Thị P1 và bà Trần Thị S đều có đăng ký hộ khẩu thường trú và vẫn đang cư trú tại thôn Q, xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Tại biên bản xác minh tại UBND xã N thể hiện: Thửa đất số 200, tờ bản đồ số 26 diện tích 518m2 tại thôn Q, xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương có nguồn gốc cha ông để lại đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 647447 số vào sổ cấp GCN: CH01582 cấp ngày 01/12/2020 cấp cho ông T rần V ăn H và bà L ê Thị P1 . Quá trình sử dụng đất không có tranh chấp, không có chuyển nhượng và không có biến động gì.

Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 12/8/2024 thể hiện:

Thửa đất số 200, tờ bản đồ số 26 tại thô n Q , x ã N , h uy ện K , t ỉnh H ải D ương có diện tích 518m2.

Về tài sản trên đất: 01 nhà cấp 4 diện tích 41,4m2. Ngoài các tài sản trên không còn tài sản gì khác. Ông H xác định tại thời điểm thế chấp đến nay các tài sản giữ nguyên hiện trạng không thay đổi gì, không xây dựng mới thêm gì. Có 01 nhà cấp 4 diện tích 61,7m2 ông H khai do mưa bão bị hỏng nên đã bị đổ tường, không còn nguyên vẹn. Đối với căn nhà đã bị hỏng ngân hàng không có ý kiến hay yêu cầu, đề nghị gì và đề nghị xử lý bằng các tài sản còn hiện hữu trên đất.

Tại phiên toà:

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và quan điểm đã trình bày tại Tòa án, yêu cầu ông H, bà P1, bà S phải trả cho ngân hàng toàn bộ số tiền nợ gốc và lãi như trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chưa chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, 157, 227 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 280, 299, 317, 318, 319, 320, 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 188 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 7, 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Phát Triển Thành phố H .

Buộc ông Trần Văn H và bà Lê Thị P1 phải có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H tổng số tiền còn nợ theo Hợp đồng tín dụng số 25833/22MB/HĐTD ngày 04/11/2022, đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán/sản phẩm - dịch vụ ngày 25/11/2022 tổng số tiền tính đến hết ngày 30/9/2024 là 1.228.099.000 đồng. Trong đó: Nợ gốc: 998.099.000 đồng, N lãi trong hạn: 200.000.000 đồng. Nợ lãi quá hạn: 30.000.000 đồng.

Buộc bà T rần Th ị S phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP phát triển t h ành p hố H tổng số tiền còn nợ theo Hợp đồng sau: Đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán/sản phẩm - dịch vụ ngày 27/12/2022 tổng số tiền tính đến hết ngày 30/9/2024 là 842.000.000 đồng trong đó: Nợ gốc: 692.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn: 130.000.000 đồng, nợ quá hạn: 20.000.000 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông H, bà P1, bà S còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi với mức lãi suất là 1,1%/tháng trên số tiền nợ gốc còn nợ.

Về xử lý tài sản thế chấp: Trường hợp ông T rần V ăn H , bà L ê Thị P1 , bà Trần Thị S không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc không thanh toán xong khoản nợ thì Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại khối tài sản thế chấp để thu hồi khoản nợ là: Quyền sử dụng đất tại Thửa đất số 200 tờ bản đồ số 26, diện tích 518m2 tại thôn Q, xã N, h uy ện K, t ỉnh Hải D ương và 01 nhà cấp 4 diện tích 41,4m2.

Nếu số tiền phát mại các tài sản trên không đủ thanh toán hết các khoản nợ của ông H, bà P1, bà S thì ông H, bà P1, bà S vẫn phải có nghĩa vụ trả hết các khoản nợ còn lại tại Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H. Trường hợp giá trị tài sản phát mại lớn hơn nghĩa vụ phải trả nợ của ông H, bà P1, bà S thì số tiền thu được sau khi trừ đi các chi phí, nghĩa vụ với nhà nước (nếu có), nghĩa vụ thanh toán trả nợ với Ngân hàng thì số tiền còn dư sẽ được trả lại cho ông H, bà P1.

Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Chấp nhận sự tự nguyện của ngân hàng chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Ông H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng có đề nghị xét xử vắng mặt. Bà P1, bà S đã được triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ Điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt ông H, bà P1, bà S.

[2] Về thời hiệu khởi kiện: Ngân hàng yêu cầu ông H, bà P1, bà S phải trả số tiền nợ gốc và lãi từ tháng 5 năm 2023 do ông H, bà P1, bà S đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Đến ngày 19/6/2024 ngân hàng khởi kiện là vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu nguyên đơn cung cấp thì Toà án xét thấy nguyên đơn và bị đơn có việc thực hiện giao dịch vay tiền có đảm bảo bằng thế chấp quyền sử dụng đất, nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền nợ gốc, tiền lãi còn nợ. Do đó Tòa án xác định là tranh chấp dân sự loại quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại t hôn Q , x ã N, hu yện K, tỉ nh Hải D ương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Xác định ông H, bà P1 và N gân h àn g T MCP p h át t riển t h ành p hố H đã ký Hợp đồng tín dụng số 25833/22MB/HĐTD ngày 04/11/2022, đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán/sản phẩm - dịch vụ ngày 25/11/2022. Với số tiền vay là: 998.099.000 đồng, thời hạn vay 60 tháng. Mục đích sử dụng vốn: vay tiêu dùng. Phương thức cho vay: phát hành thẻ tín dụng quốc tế.

Xác định bà S và N gân h àng T MCP p hát t ri ển th ành phố H đã ký hợp đồng dưới hình thức: Đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán/sản phẩm - dịch vụ ngày 27/12/2022. Số tiền vay là: 692.000.000 đồng. Thời hạn vay 60 tháng. Mục đích sử dụng vốn: vay tiêu dùng. Phương thức cho vay: phát hành thẻ tín dụng quốc tế.

Nội dung và hình thức của Hợp đồng tuân thủ quy định của pháp luật. Xác nhận Hợp đồng tín dụng có hiệu lực pháp luật, các bên phải thực hiện quyền, nghĩa vụ theo thỏa thuận của Hợp đồng. Thực hiện hợp đồng Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H đã giải ngân cho ông H, bà P1 số tiền 998.099.000 đồng, giải ngân cho bà S số tiền 692.000.000 đồng. Nhưng ông H, bà P1, bà S đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng mặc dù ông H, bà P1, bà S đã được thông báo về khoản tiền vay, lãi suất của ngân hàng nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn nên ông H, bà P1, bà S không có khả năng trả những khoản nợ trên và xác định cũng chưa trả được khoản tiền nợ gốc nào.

[5] Sau khi vay tiền, ông H, bà P1, bà S đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết, vi phạm các nội dung thỏa thuận. Ngân hàng yêu cầu ông H, bà P1 phải trả nợ tính đến ngày 30/9/2024 số tiền nợ gốc 998.099.000 đồng, số tiền lãi trong hạn là 200.000.000 đồng, lãi quá hạn là 30.000.000 đồng. Yêu cầu bà S phải trả số tiền nợ gốc là 692.000.000 đồng, lãi trong hạn là 130.000.000 đồng, lãi quá hạn là 20.000.000 đồng. Do vậy N g ân hàng T MCP ph át t riển th ành p hố H khởi kiện yêu cầu ông H, bà P1, bà S phải trả toàn bộ số tiền nợ gốc, tiền lãi suất trong hạn, tiền lãi suất quá hạn, nợ phí theo Hợp đồng tín dụng là có căn cứ. Đối với mức lãi suất sau ngày 30/9/2024 ngân hàng yêu cầu ông H, bà P1, bà S phải trả là 1,1%/tháng trên số tiền nợ gốc còn nợ là phù hợp nên cần được chấp nhận.

[6] Xét hợp đồng tín dụng có chữ ký của ông H, bà P1, bà S. Ông H thừa nhận các khoản vay nợ trên với ngân hàng. Do vậy xác định khoản vay trên là khoản vay trong thời kỳ hôn nhân giữa ông H, bà P1. Do vậy cần buộc ông H, bà P1 cùng phải có nghĩa vụ liên đới với khoản vay này với ngân hàng theo quy định tại Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình. Bà S phải có nghĩa vụ trả số tiền còn nợ trên cho ngân hàng.

[7] Căn cứ xác nhận nợ của hai bên, bảng xác nhận số tiền vay của khách hàng, bảng tính lãi tiền vay của khách hàng về khoản nợ theo Hợp đồng tín dụng, đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán/sản phẩm - dịch vụ do nguyên đơn cung cấp. Tòa án buộc ông H, bà P1 phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng tính đến ngày 30/9/2024 số tiền nợ gốc 998.099.000 đồng, số tiền lãi trong hạn là 200.000.000 đồng, lãi quá hạn là 30.000.000 đồng. Buộc bà S phải có nghĩa vụ trả cho ngân hàng số tiền là nợ gốc là 692.000.000 đồng, lãi trong hạn là 130.000.000 đồng, lãi quá hạn là 20.000.000 đồng.

[8] Về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông H, bà P1, thì thấy: Bên thế chấp và bên nhận thế chấp đã ký kết hợp đồng thế chấp. Cụ thể: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 25833/22MB/HDBD ngày 15/11/2022 và theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác số 29993/22MB/HĐBĐ ngày 30/12/2022 tại v ăn ph òng C , th àn h p hố H , tỉ nh H ải  D ương , số công chứng 5436/2022/HĐTC quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD, giữa bên thế chấp là ông Trần Văn H và bà Lê T hị P1 với bên nhận thế chấp là Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H. Đối tượng thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 200, tờ bản đồ số 26, diện tích 518m2, địa chỉ: Th ôn Q , xã N , hu yện K , t ỉn h Hải D ươn g theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CV 647447; số vào sổ cấp GCN: CH01582 do UBND huyện K, tỉnh Hải Dương cấp ngày 01/12/2020. Chủ sử dụng là ông Trần Văn H và bà Lê Thị P1. Hợp đồng thế chấp đều được công chứng và được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Quyền sử dụng đất hu yện K ngày 30/12/2022. Các tài sản đã thế chấp hiện vẫn còn nguyên trạng, không có phát sinh thêm tài sản nào khác của ai. Đối với nhà ở cấp 4 diện tích 61,7m2 do mưa bão bị đổ, hư hỏng, ngân hàng không có yêu cầu gì và đề nghị Toà án giải quyết các tài sản còn lại trên đất. Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ thửa đất số 200, tờ bản đồ số 26, diện tích 518m2 tại th ôn Q , xã N , hu yện K , tỉ nh Hải D ươn g , trên đất có 01 nhà cấp 4 diện tích 41,4m2. Diện tích đất trên từ trước đến nay không tranh chấp, lấn chiếm đất của ai, cũng như không lấn chiếm đất của nhà nước, không có việc chuyển nhượng tặng cho ai thửa đất trên. Thửa đất trên từ trước đến nay không có biến động thay đổi gì. Các hộ giáp gianh cũng xác định thửa đất trên không có tranh chấp, lấn chiếm gì. Hợp đồng thế chấp nói trên được các bên tự nguyện ký kết, hợp đồng được công chứng và được đăng ký giao dịch bảo đảm là đúng quy định của pháp luật về nội dung và hình thức. Tại Điều 4 của hợp đồng thế chấp tài sản, về nghĩa vụ được bảo đảm quy định: Toàn bộ nghĩa vụ của bên thế chấp (bao gồm nghĩa vụ thanh toán giá trị trái phiếu do bên thế chấp phát hành khi trái phiếu đến hạn thanh toán (gốc, lãi) hoặc nghĩa vụ thanh toán tiền mua trái phiếu trước hạn (gốc, lãi) của bên thế chấp (nếu có) và các nghĩa vụ thanh toán khác đối với H2 (gồm nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn, phí, phạt, các khoản phải trả, bồi thường thiệt hại khác). Do đó, trong trường hợp ông H, bà P1 không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất tại thửa đất số 200, tờ bản đồ số 26, diện tích 518m2, địa chỉ: Thô n Q , x ã N , h uy ệ n K , t ỉn h H ải D ươn g và các tài sản trên đất để thu hồi nợ là đúng quy định của pháp luật.

[9] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Chấp nhận sự tự nguyện của ngân hàng chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.

[10] Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, ông H, bà P1, bà S có nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, 157, 227 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 280, 299, 317, 318, 319, 320, 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 188 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 7, 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Nghị quyết số:

326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ng ân hàng T MCP ph át tri ển th àn h phố H.

2. Về nghĩa vụ trả nợ tiền gốc và tiền lãi:

Buộc ông Trần Văn H và bà Lê Thị P1 phải có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H tổng số tiền còn nợ theo Hợp đồng tín dụng số 25833/22MB/HĐTD ngày 04/11/2022, đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán/sản phẩm - dịch vụ ngày 25/11/2022 tính đến ngày 30/9/2024 với số tiền nợ gốc 998.099.000 đồng, số tiền lãi trong hạn là 200.000.000 đồng, lãi quá hạn là 30.000.000 đồng Buộc bà T rần Th ị S phải có nghĩa vụ trả cho Ng ân h àn g TMCP ph át t riển t h ành p hố H tổng số tiền còn nợ theo Hợp đồng sau: Đề nghị kiêm hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán/sản phẩm - dịch vụ ngày 27/12/2022 số tiền nợ gốc là 692.000.000 đồng, số tiền lãi trong hạn là 130.000.000 đồng, số tiền lãi quá hạn là 20.000.000 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông H, bà P1, bà S còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi với mức lãi suất là 1,1%/tháng trên số tiền nợ gốc còn nợ.

3. Về xử lý tài sản thế chấp: Trường hợp ông T rần Văn H , bà L ê Th ị P1 , bà Trần Thị S không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc không thanh toán xong khoản nợ thì Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại khối tài sản thế chấp để thu hồi khoản nợ là: Quyền sử dụng đất tại Thửa đất số 200 tờ bản đồ số 26, diện tích 518m2 tại thôn Q, xã N, h uy ện K, t ỉnh Hải D ương và 01 nhà cấp 4 diện tích 41,4m2.

Nếu số tiền phát mại các tài sản trên không đủ thanh toán hết các khoản nợ của ông H, bà P1, bà S thì ông H, bà P1, bà S vẫn phải có nghĩa vụ trả hết các khoản nợ còn lại tại Ngân hàng TMCP phát triển thành phố H. Trường hợp giá trị tài sản phát mại lớn hơn nghĩa vụ phải trả nợ của ông H, bà P1, bà S thì số tiền thu được sau khi trừ đi các chi phí, nghĩa vụ với nhà nước (nếu có), nghĩa vụ thanh toán trả nợ với Ngân hàng thì số tiền còn dư sẽ được trả lại cho ông H, bà P1.

4. Về án phí: Ông H, bà P1 phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 48.842.970 đồng. Bà S phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 37.260.000 đồng. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại Ng ân h àn g T MCP p hát t riển t h ành p hố H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là: 38.794.973 đồng theo biên lai ký hiệu: BLTU/23 số 0006276 ngày 27/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.

5. Về chi chí thẩm định tại chỗ: Ghi nhận sự tự nguyện của Ngân hàng TMCP P chịu toàn bộ số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ (Ngân hàng đã thực hiện xong nghĩa vụ).

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản số 24/2024/DS-ST

Số hiệu:24/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:30/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về