Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản số 03/2024/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PH HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 03/2024/DS-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 39/2023/TLST-DS ngày 17 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp về Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 807/2024/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 12 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 48/2024/QĐST-DS ngày 18 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần V (sau đây gọi là V1); địa chỉ trụ sở: số H, đường L, phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Bích H, nơi cư trú: Số B, đường N, phường C, quận L, thành phố Hải Phòng và ông Lê Đình T, nơi cư trú: Thôn A, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 990/2023/UQ-KHCN ngày 03-8-2023); đều có mặt.

Bị đơn: Bà Trần Thị L và ông Nguyễn Miên T1; nơi cư trú: Số nhà A, đường C, phường C, quận N, thành phố Hải Phòng; bà L có mặt, ông T1 vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 03-8-2023, bản tự khai, biên bản hòa giải ngày 22-12-2023 và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn thống nhất trình bày:

1. Hợp đồng cho vay số LN2112284988315 ngày 30-12-2021: Hạn mức cho vay là 200.000.000 đồng; thời hạn vay là 84 tháng, tính từ ngày tiếp theo của ngày giải ngân; mục đích sử dụng vốn: Vay tiêu dùng mua đồ nội thất trong gia đình; lãi suất trong hạn tại thời điểm giải ngân là 10,5%/năm; lãi suất cho vay trong hạn được cố định 6 tháng kể từ ngày giải ngân; hết thời gian cố định, lãi suất cho vay trong hạn sẽ được điều chỉnh; lãi suất quá hạn bằng 150% mức lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn; lãi suất chậm trả áp dụng đối với tiền lãi chậm trả bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả lãi nhưng tối đa không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Hợp đồng cho vay số LN2107023952724 ngày 07-7-2021: Hạn mức cho vay là 1.050.000.000 đồng; thời hạn vay là 120 tháng, tính từ ngày tiếp theo của ngày giải ngân; mục đích sử dụng vốn: Vay đầu tư tài sản cố định mở rộng phát triển kinh doanh cafe, giải khát và dịch vụ trông giữ, dọn nội thất xe ô tô; lãi suất trong hạn là 8%/năm; lãi suất cho vay trong hạn được cố định 6 tháng; hết thời hạn cố định lãi suất cho vay trong hạn được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/01 lần vào các ngày 01-01, 01-04, 01-07 và 01-10 hàng năm. Ngày điều chỉnh lãi suất đầu tiên là ngày 07-01-2022, ngày điều chỉnh lãi suất tiếp theo là ngày 01-04-2022; lãi suất quá hạn bằng 150% mức lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn; lãi suất chậm trả áp dụng đối với tiền lãi chậm trả bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả lãi nhưng tối đa không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

3. Hợp đồng cho vay số LN2106263927792 ngày 30-6-2021 và Khế ước nhận nợ kèm theo: Hạn mức cho vay là 4.800.000.000 đồng; thời hạn vay là 24 tháng; mục đích sử dụng vốn: Bổ sung vốn kinh doanh café; lãi suất trong hạn tại thời điểm giải ngân là 8%/năm; lãi suất cho vay trong hạn được cố định 3 tháng kể từ ngày 30-6-2021; hết thời hạn 3 tháng, lãi suất cho vay trong hạn được điều chỉnh định kỳ 01 tháng/01 lần; ngày điều chỉnh lãi suất đầu tiên là ngày 30-9-2021; lãi suất quá hạn bằng 150% mức lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn; lãi suất chậm trả áp dụng đối với tiền lãi chậm trả bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả lãi nhưng tối đa không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

4. Giấy đề nghị vay vốn ký ngày 07-8-2020: số tiền vay là 200.000.000 đồng; mục đích vay tiêu dùng; thời hạn vay là 48 tháng; lãi suất cho vay trong hạn: Theo quy định của V1; lãi suất cho vay quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn.

5. Giấy đề nghị vay vốn ký ngày 13-7-2021: số tiền vay là 200,000,000 đồng; mục đích vay tiêu dùng; thời hạn vay là 60 tháng; lãi suất cho vay trong hạn: Theo quy định của V1; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn.

6. Giấy đề nghị phát hành thẻ kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế số 295-P-4121958 ngày 02-7-2021: Hạn mức đề nghị: 20.000.000 đồng; loại thẻ: Visa Super Shopee P; lãi suất: Theo quy định của V1; mục đích vay tiêu dùng.

Tài sản bảo đảm cho các khoản vay nêu trên là:

- 01 Xe ô tô nhãn hiệu VINFAST; số loại Fadil; BKS 15A-864.83; số khung RPXCA2FACMV019980; số máy TV7212520193 (Chi tiết theo Hợp đồng thế chấp số LN2112284988315 ngày 30-12-2021).

Hải Phòng, theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CB 259839; Số vào sổ cấp GCN: CH.07330 do Ủy ban nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng cấp ngày 26-10-2015 (Chi tiết theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 11412/HĐTC/2021, Quyền số: 05/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 29-6-2021 tại Văn phòng C, Hải Phòng).

Quá trình thực hiện các hợp đồng trên, bà Trần Thị L và ông Nguyễn Miên T1 đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ từ ngày 15-4-2023 đối với V1 và phải chịu mức lãi suất nợ quá hạn theo thỏa thuận trong các Hợp đồng tín dụng. Tạm tính đến ngày 30-01-2024 bà L và ông T1 còn nợ V1 tổng số tiền là: 7.195.631.474 đồng; trong đó, nợ gốc: 6.071.686.693 đồng và nợ lãi: 1.123.944.780 đồng. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các yêu cầu sau:

Buộc Bà Trần Thị L và ông Nguyễn Miên T1 phải trả cho V1 tổng số tiền tạm tính đến ngày 30-01-2024 là: 7.195.631.474 đồng ; trong đó, nợ gốc: 6.071.686.693 đồng; nợ lãi trong hạn là 138.048.794 đồng và nợ lại quá hạn là 985.895.986 đồng.

Yêu cầu Tòa án tiếp tục cho tính lãi theo đúng thỏa thuận trong các Hợp đồng tín dụng cho đến ngày thực tế bà L và ông T1 thanh toán hết nợ cho V1.

Khi Bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, bị đơn không trả hoặc trả nợ không đầy đủ thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Tài sản đảm bảo của bà L và ông T1 bị xử lý bao gồm:

- Xe ô tô nhãn hiệu VINFAST; số loại Fadil; BKS 15A-864.83; số khung RPXCA2FACMV019980; số máy LV7212520193 (Chi tiết theo Hợp đồng the chấp số LN2112284988315 ngày 30-12-2021).

- Toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số Lô BT32, tờ bản đồ số 17, tại địa chỉ: Tổ dân phố K, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng, theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CB 259839, số vào sổ cấp GCN: CH.07330 do UBND quận H, thành phố Hải Phòng cấp ngày 26-10-2015 (Chi tiết theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 11412/HĐTC/2021, Quyển số: 05/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 29-6-2021 tại Văn phòng C, thành phố Hải Phòng).

Trường hợp sau khi xử lý các tài sản bảo đảm trên mà không đủ trả nợ thì V1 có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xác minh và xử lý các tài sản khác của bà L và ông T1 để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho V1 cho đến khi thực tế trả xong nợ.

Nguyên đơn đề nghị rút yêu cầu buộc bị đơn phải trả tiền phạt chậm trả lãi với số tiền là 54.403.942 đồng.

Đối với bị đơn (là bà Trần Thị L và chồng là ông Nguyễn Miên T1), quá trình giải quyết vụ án ông TI đều vắng mặt không có lý do. Bà L có mặt và trình bày: Tôi (L) xác nhận có cùng chồng là ông Nguyễn Miên T1 ký kết với V1 các Hợp đồng tín dụng với các điều khoản cơ bản như V1 trình bày cụ thể ở trên. Để đảm bảo cho các khoản vay, vợ chồng tôi đã ký các Hợp đồng thế chấp tài sản đảm với V1, bao gồm:

đồng thế chấp số LN2112284988315 ngày 30-12-2021).

- Tài sản 02: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số Lô BT32, tờ bản đồ số 17, tại địa chỉ: Tổ dân phố K, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng, theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CB 259839, số vào sổ cấp GCN: CH.07330 do UBND quận H, thành phố Hải Phòng cấp ngày 26-10-2015 (Chi tiết theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 11412/HĐTC/2021, Quyền số: 05/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 29-6-2021 tại Văn phòng C, thành phố Hải Phòng).

Tại thời điểm ký kết các hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản nêu trên vợ chồng tôi hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt và hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, lừa dối. Do điều kiện làm ăn kinh tế gặp nhiều khó khăn nên chúng tôi đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với V1 theo các nội dung đã thỏa thuận trong các hợp đồng.

Nay V1 khởi kiện yêu cầu chúng tôi phải có nghĩa vụ trả toàn bộ số tiền nợ gốc và nợ lãi phát sinh theo các hợp đồng tín dụng hai bên đã ký kết và yêu cầu xử lý tài sản đảm bảo của vợ chồng tôi đã thế chấp cho V1 thì tôi (L) có ý kiến như sau: Hiện chúng tôi đang gặp nhiều khó khăn trong công việc kinh doanh; chồng tôi thường xuyên phải đi công tác xa nhà dài ngày nên đề nghị Ngân hàng tạo điều kiện để khoanh số tiền nợ lãi phát sinh và giãn thời gian trả nợ gốc để chúng tôi có điều kiện trả nợ cho ngân hàng theo đúng các nội dung mà hai bên đã thỏa thuận ký kết trong hợp đồng.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn (bà L) đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng; bị đơn (ông T1) chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào các điều 293, 295, 317, 323, 463, 466 và 468 Bộ luật Dân sự; Điều 26, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (V1) đối với bị đơn (ông Nguyễn Miên T1 và vợ là bà Trần Thị L). Buộc bị đơn phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn tổng số tiền nợ tính đến ngày 30-01-2024 là: 7.195.631.474 đồng; trong đó, nợ gốc: 6.071.686.693 đồng; nợ lãi trong hạn là 138.048.794 đồng và nợ lại quá hạn là 985.895.986 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

vụ trả nợ. tài sản thế chấp bị xử lý là:

- Xe ô tô nhãn hiệu VINFAST; số loại Fadil; BKS 15A-864.83; có số khung RPXCA2FACMV019980 và số máy LV7212520193 (Chi tiết theo Hợp đồng thế chấp số LN2112284988315 ngày 30-12-2021).

- Toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số Lô BT32, tờ bản đồ số 17, tại địa chỉ: Tổ dân phố K, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CB 259839, số vào sổ cấp GCN: CH.07330 do UBND quận H, thành phố Hải Phòng cấp ngày 26-10-2015 (Chi tiết Hợp đồng thế chấp số công chứng 11412/HĐTC/2021, Quyền số: 05/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 29-6-2021 tại Văn phòng C, thành phố Hải Phòng).

Trường hợp sau khi xử lý tài sản đảm bảo, số tiền thu được do bán tài sản thế chấp dùng để trả nợ cho nguyên đơn mà còn thừa thì được trả lại cho bên thế chấp, nếu thiếu, không đủ trả nợ thì bị đơn còn phải tiếp tục trả nợ phần còn thiếu.

Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả tiền phạt chậm trả lãi với số tiền là 54.403.942 đồng.

Về án phí: Bị đơn phải nộp 115.195.631 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại nguyên đơn khoản tiền tạm ứng án phí 57.300.000 đồng đã nộp, theo biên lai ký hiệu AA/2021, số 0006936, ngày 17-10-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự: Tòa án triệu tập hợp lệ phiên tòa đến lần thứ hai nhưng bị đơn (ông Nguyễn Miên T1) vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Miên T1.

[2] Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp về hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản. Bị đơn là cá nhân không có đăng ký kinh doanh và có địa chỉ cư trú tại phường C, quận N; mặt khác trong hợp đồng tín dụng đã thể hiện mục đích bị đơn vay vốn để phục vụ tiêu dùng mua đồ nội thất trong gia đình và mua tài sản cố định kinh doanh cafe, nên Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền thụ lý giải quyết và xác định đây là vụ án tranh chấp về dân sự theo quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự để thụ lý giải quyết là đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[3] Nguyên đơn và bị đơn đều xác nhận đã ký kết và thực hiện Hợp đồng tín dụng với các điều khoản cơ bản đã được nêu cụ thể tại phần trên của bản án. Để đảm bảo cho khoản vay theo các Hợp đồng tín dụng, nguyên đơn và bị đơn đã xác lập Hợp đồng thế tài sản số LN2112284988315 ngày 30-12-2021 và Hợp đồng thế chấp số công chứng 11412/HĐTC/2021, Quyền số: 05/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày [4] Về hiệu lực của hợp đồng tín dụng: Hợp đồng tín dụng các bên thỏa thuận và ký kết có nội dung và hình thức phù hợp với quy định tại Điều 463 của Bộ luật Dân sự, phù hợp với các quy định của Luật các tổ chức tín dụng. Bởi vậy hợp đồng tín dụng nêu trên là hợp pháp; có hiệu lực pháp luật và các bên tham gia ký kết hợp đồng phải có nghĩa vụ thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận.

[5] Về hiệu lực của hợp đồng thế chấp tài sản: Nguyên đơn và bị đơn đã xác lập Hợp đồng thế tài sản số LN2112284988315 ngày 30-12-2021 và Hợp đồng thế chấp số công chứng 11412/HĐTC/2021, Quyền số: 05/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 29-6-2021 tại Văn phòng C, thành phố Hải Phòng. Các bên tham gia ký kết các hợp đồng không ai có ý kiến phản đối gì đối với hợp đồng thế chấp tài sản đã ký kết. Tài sản thế chấp đảm bảo cho hợp đồng tín dụng được đăng ký giao dịch đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Bởi vậy hợp đồng thế chấp được xác lập giữa các bên là hợp pháp và có hiệu lực pháp luật.

[6] Về thực hiện hợp đồng tín dụng: Sau khi xác lập hợp đồng tín dụng, nguyên đơn đã thực hiện đúng nghĩa vụ cho vay trong hợp đồng là giao toàn bộ tổng số tiền cho vay cho bị đơn. Việc này được chứng minh bằng giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ có chữ ký xác nhận của bị đơn và được bị đơn (bà L) xác nhận tại lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa.

[7] Sau khi tiếp nhận vốn vay bị đơn mới trả được một phần tiền gốc và tiền lãi phát sinh. Từ ngày 15 tháng 4 năm 2023 bị đơn đã không trả nợ gốc và nợ lãi theo đúng thời hạn, vi phạm nghĩa vụ trả nợ đối với nguyên đơn theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký kết. Đối chiếu với các quy định về thời gian cho vay và thời gian trả nợ đã được thỏa thuận, ký kết, xác lập giữa các bên trong Hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ thì bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ vay nên nguyên đơn khởi kiện là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 466 Bộ luật Dân sự.

[8] Khoản tiền nợ cụ thể mà nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả được thể hiện qua các chứng từ chứng minh. Khoản tiền lãi phát sinh được nguyên đơn tính toán đúng mức lãi suất các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và phù hợp với quy định của pháp luật. Thời gian chịu lãi được tính chính xác theo hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ và phù hợp với thực tế. Do vậy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cần được chấp nhận. Buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn toàn bộ khoản nợ gốc và nợ lãi phát sinh tính đến ngày 30-01-2024 là: 7.195.631.474 đồng; trong đó, nợ gốc là 6.071.686.693 đồng; nợ lãi trong hạn là 138.048.794 đồng và nợ lãi quá hạn là 985.895.986 đồng.

[9] Đối với khoản nợ gốc bị đơn phải trả cho nguyên đơn thì bị đơn vẫn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm cho đến khi trả nợ xong.

[10] Về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp: Nhu đã phân tích ở trên, hợp đồng thế chấp tài sản xác lập giữa các bên là có hiệu lực pháp luật nên các bên trong hợp đồng phải tuân thủ đúng các quy định đã cam kết trong hợp đồng. Nguyên đơn có yêu cầu xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp bị đơn không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Xét yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của nguyên đơn là hoàn toàn chính đáng, phù hợp với quy định tại Điều 323 của Bộ luật Dân sự và đúng với thỏa thuận của các bên đã được ghi trong hợp đồng nên chấp nhận.

đủ trả nợ thì bị đơn còn phải tiếp tục trả nợ phần còn thiếu.

[12] Đối với yêu cầu của nguyên đơn nêu: Trường hợp sau khi xử lý các tài sản bảo đảm trên mà không đủ trả nợ thì V1 có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xác minh và xử lý các tài sản khác của bà L và ông T1 để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho V1 cho đến khi thực tế trả xong nợ. Xét thấy đây là yêu cầu của nguyên đơn nhưng thuộc phạm vi hoạt động nghiệp vụ của Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền khi tiến hành thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[13] Tại phiên tòa, nguyên đơn đề nghị rút yêu cầu khởi kiện về việc buộc bị đơn phải trả tiền phạt chậm trả lãi với số tiền là 54.403.942 đồng. Xét việc rút yêu cầu của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên cần chấp nhận để đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu này của nguyên đơn.

[14] Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[15] Do toàn bộ yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại nguyên đơn khoản tiền 57.300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai ký hiệu AA/2021, số 0006936, ngày 17-10- 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền.

[16] Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là: 112.000.000 đồng + [(7.195.631.474 đồng - 4.000.000.000 đồng) x 0,1%] = 115.195.631 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 293, 295, 317, 323, 463, 466 và 468 của Bộ luật Dân sự; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 26, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (Ngân hàng Thương mại Cổ phần V) đối với bị đơn (ông Nguyễn Miên T1 và bà Trần Thị L).

1. Buộc bị đơn (ông Nguyễn Miên T1 và bà Trần Thị L) phải có nghĩa vụ thanh toán, trả cho nguyên đơn (Ngân hàng Thương mại Cổ phần V) số tiền nợ với tổng số tiền tính đến ngày 30-01-2024 là: 7.195.631.474 (bảy tỷ một trăm chín mươi lăm triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn bốn trăm bảy bốn) đồng; trong đó, nợ gốc: 6.071.686.693 (sáu tỷ không trăm bảy mốt triệu sáu trăm tám sáu nghìn sáu trăm chín ba) đồng; nợ lãi trong hạn là 138.048.794 (một trăm ba mươi tám triệu không trăm bốn mươi tám nghìn bảy trăm chín mươi tư) đồng và nợ lại quá hạn là 985.895.986 (chín trăm tám mươi lăm triệu tám trăm chín mươi lăm nghìn chín trăm tám sáu) đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp 2. Trường hợp bị đơn không thực hiện việc trả toàn bộ khoản nợ nêu trên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ trả nợ khoản tiền trên. Tài sản thế chấp bị xử lý là:

- Xe ô tô nhãn hiệu VINFAST; số loại Fadil; BKS 15A-864.83; số khung RPXCA2FACMV019980 và số máy LV7212520193 (Chi tiết theo Hợp đồng thế chấp số LN2112284988315 ngày 30-12-2021).

- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số Lô BT32, tờ bản đồ số 17, tại địa chỉ: Tổ dân phố K, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CB 259839, số vào sổ cấp GCN: CH.07330 do UBND quận H, thành phố Hải Phòng cấp ngày 26-10-2015 (Chi tiết theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 11412/HĐTC/2021, Quyền số: 05/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 29-6-2021 tại Văn phòng C, thành phố Hải Phòng).

3. Số tiền thu được do xử lý tài sản thế chấp dùng để trả nợ cho nguyên đơn mà còn thừa thì được trả lại cho bên thế chấp; nếu thiếu, không đủ trả nợ thì bị đơn còn phải tiếp tục trả nợ phần còn thiếu.

4. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả tiền phạt chậm trả lãi với số tiền là 54.403.942 đồng.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Nguyễn Miên T1 và bà Trần Thị L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là 115.195.631 (một trăm mười lăm triệu một trăm chín mươi lăm nghìn sáu trăm ba mốt) đồng.

- Trả lại Ngân hàng Thương mại cổ phần V khoản tiền 57.300.000 (năm mươi bảy triệu ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai ký hiệu AA/2021, số 0006936 ngày 17-10-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền.

6. Nguyên đơn và bị đơn (bà Trần Thị L) có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn (ông Nguyễn Miên T1) vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản số 03/2024/DS-ST

Số hiệu:03/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về