Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 99/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 99/2021/DS-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 06 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 400/2020/TLST-DS ngày 09/11/2020 về tranh chấp “Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2021/QĐXXST-DS ngày 02/3/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn : Ngân hàng Thương mại Cổ phần S.

Trụ sở: Số 266-268, đường N, phường 8, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D- Tổng giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn G- Giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần S - chi nhánh Tiền Giang theo Giấy ủy quyền số 3972/2019/GUQ-PL ngày 16/12/2019.

Ông Nguyễn Văn G ủy quyền lại cho anh Nguyễn Quốc B- Chuyên viên quản lý nợ- chi nhánh Tiền Giang theo Giấy ủy quyền ngày 22/10/2020 (có mặt);

Địa chỉ: Số 06, Đ, phường 2, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn : Chị Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1990 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp X, xã Y, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn khởi kiện, Bản khai và tại phiên Tòa hôm nay, đại diện theo uỷ quyền của Ngân hàng TMCP S trình bày: Ngày 11/12/2014, chị Nguyễn Thị Thu T có ký kết Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng với Ngân hàng TMCP S- chi nhánh Tiền Giang với số tiền được cấp hạn mức 20.000.000 đồng, thời hạn vay 36 tháng đổi thẻ một lần, lãi suất 30%/năm, mục đích tiêu dùng.

Sau khi được cấp hạn mức, chị T thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 102.066.500 đồng, tiền lãi là 30.032.088 đồng, tiền phí là 5.285.291đồng. Tính đến ngày 05/7/2020, chị T đã thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền 114.683.293 đồng, trong đó tiền vốn là 80.270.457 đồng, tiền lãi và phí là 34.417.782 đồng và ngưng không thanh toán nữa. Ngân hàng đã làm việc nhiều lần, nhắc nhở và tạo điều kiện cho chị T thanh toán nhưng chị vẫn không có thiện chí trả nợ. Do chị T vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng nên Ngân hàng đã chuyển toàn bộ nợ còn thiếu là 22.695.560 đồng sang nợ quá hạn, tiền lãi quá hạn được tính trên số dư nợ đã chuyển với lãi suất 2,6%/tháng.

Nay Ngân hàng TMCP S khởi kiện yêu cầu chị Nguyễn Thị Thu T trả số tiền nợ gốc là 22.695.560 đồng, tiền lãi quá hạn theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 11/12/2014, tạm tính đến ngày 06/4/2021 là 8.113.600 đồng. Tổng cộng tạm tính là 30.809.160 đồng và yêu cầu chị T tiếp tục thanh toán số nợ lãi phát sinh theo mức lãi suất trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán hết số nợ.

* Quá trình tố tụng, Toà án nhân dân huyện Chợ Gạo đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng qui định nhưng chị Nguyễn Thị Thu T không nộp bản tự khai, các tài liệu, chứng cứ hoặc các văn bản thể hiện ý chí của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng tại phiên toà hôm nay, chị T cũng vắng mặt mà không vì sự việc bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo tham gia phiên toà có ý kiến phát biểu:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi xét xử, Thẩm phán và Thư ký chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, xét thấy ngày 11/12/2014, chị Nguyễn Thị Thu T có ký kết Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng với Ngân hàng TMCP S - chi nhánh Tiền Giang, số tiền được cấp hạn mức là 20.000.000 đồng, thời hạn 36 tháng đổi thẻ một lần, lãi suất 30%/năm, mục đích tiêu dùng. Sau đó, chị T thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 102.066.500 đồng, tiền lãi là 30.032.088 đồng, tiền phí là 5.285.291 đồng. Tính đến ngày 05/7/2020, chị T đã thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền 114.683.293 đồng, trong đó vốn là 80.270.457 đồng, tiền lãi và phí là 34.417.782 đồng và ngưng thanh toán. Chị T được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không nộp văn bản trình bày ý kiến. Vì vậy Ngân hàng TMCP S khởi kiện yêu cầu chị T trả số tiền nợ gốc là 22.695.560 đồng, tiền lãi quá hạn theo Hợp đồng ngày 11/12/2014, tạm tính đến ngày 06/4/2014 là 8.113.600 đồng và yêu cầu chị T tiếp tục thanh toán số nợ lãi phát sinh theo mức lãi suất trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán hết số nợ, là có cơ sở, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng TMCP S yêu cầu chị Nguyễn Thị Thu T trả số tiền còn nợ theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 11/12/2014. Do đó, tranh chấp giữa các đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Chợ Gạo.

[2] Về sự có mặt của đương sự: Quá trình tố tụng, Toà án nhân dân huyện Chợ Gạo đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng qui định nhưng chị Nguyễn Thị Thu T không nộp bản tự khai, các tài liệu, chứng cứ hoặc các văn bản thể hiện ý chí của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng tại phiên toà hôm nay, chị cũng vắng mặt mà không vì sự việc bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, do đó Toà án xét xử vắng mặt chị T theo quy định.

[3] Về các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, ý kiến trình bày, tranh luận của đương sự và căn cứ giải quyết vụ án:

Theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 11/12/2014 của Ngân hàng TMCP S - chi nhánh Tiền Giang thể hiện chị Nguyễn Thị Thu T được Ngân hàng cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng 20.000.000 đồng, thời hạn 36 tháng đổi thẻ một lần, lãi suất 30%/năm, mục đích tiêu dùng.

Sau khi được cấp thẻ, Chị T đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 102.066.500 đồng, tiền lãi là 30.032.088 đồng, tiền phí là 5.285.291đồng. Tính đến ngày 05/7/2020, chị T đã thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền 114.683.293 đồng, trong đó vốn là 80.270.457 đồng, tiền lãi và phí là 34.417.782 đồng rồi ngưng không thanh toán nữa. Do chị T vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng chuyển toàn bộ nợ còn thiếu là 22.695.560 đồng sang nợ quá hạn, tiền lãi quá hạn được tính trên số dư nợ đã chuyển với lãi suất 2,6%/tháng.

Quá trình tố tụng chị T được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng Chị không gửi các văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, không tham gia phiên hoà giải và không đến dự phiên toà, xem như chị không phản đối yêu cầu của Ngân hàng.

Do đó việc Ngân hàng TMCP S yêu cầu chị Nguyễn Thị Thu T trả số tiền dư nợ gốc là 22.695.560 đồng, tiền lãi quá hạn theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 11/12/2014, tạm tính đến ngày 06/4/2021 là 8.113.600 đồng. Tổng cộng tạm tính là 30.809.160 đồng và yêu cầu chị T tiếp tục thanh toán số nợ lãi phát sinh theo mức lãi suất trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán hết số nợ, là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về Điều luật áp dụng: khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 91, Điều 92, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 91, khoản 3 Điều 95 của Luật Tổ chức tín dụng; Điều 463; khoản 1, khoản 5 Điều 466, Điều 468, khoản 2 Điều 470, Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính phủ; Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5] Nhận định ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo: Tại Tòa, đại diện Viện kiểm sát có ý kiến phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là thực hiện đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Các đương sự không có yêu cầu nào khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu T chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 91, Điều 92, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 91, khoản 3 Điều 95 của Luật Tổ chức tín dụng; Điều 463; khoản 1, khoản 5 Điều 466, Điều 468, khoản 2 Điều 470, Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính phủ; Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần S.

Buộc chị Nguyễn Thị Thu T trả cho Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần S số tiền vốn gốc là 22.695.560 đồng, tiền lãi quá hạn theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 11/12/2014, tạm tính đến ngày 06/4/2021 là 8.113.600 đồng. Tổng cộng tạm tính là 30.809.160 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, Chị Nguyễn Thị Thu T còn phải tiếp tục chịu lãi suất đối với số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 11/12/2014 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thanh toán cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu T phải nộp 1.540.500 đồng.

Hoàn trả cho Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần S số tiền 648.000 đồng (Sáu trăm bốn mươi tám ngàn đồng) theo biên lai số 0004373 ngày 06/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo.

Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần S có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị Nguyễn Thị Thu T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 99/2021/DS-ST

Số hiệu:99/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về