Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 89/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHƯỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 89/2023/DS-ST NGÀY 26/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 26 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 185/2022/TLST-DS ngày 24 tháng 11 năm 2022, về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 113/2023/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 4 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần B, địa chỉ: 109 T, phường C, quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phan Huy C, sinh năm 1986; địa chỉ: 134-136 T, phường H, thành phố Q, tỉnh Bình Định; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 6650/2017/QĐ-TGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần B và Văn bản ủy quyền số 04/2023/GUQ-LPB.BĐ ngày 14 tháng 04 năm 2023 của Giám đốc Chi nhánh Bình Định); có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn:

1. Bà Bùi Thị T, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn T, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

2. Chị Bùi Thị Ái L, sinh năm 2002; địa chỉ: Thôn T, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 8 năm 2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Ngày 23 tháng 01 năm 2021 bà Bùi Thị T và chị Bùi Thị Ái L có ký hợp đồng tín dụng số HDTD4902021498 để vay của Ngân hàng TMCP B số tiền 100.000.000 đồng, mục đích vay mua sắm đồ gia dụng, thời hạn vay 36 tháng, lãi suất vay 8,5%/năm, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. Ngân hàng đã giải ngân cho mẹ con bà T, chị L. Quá trình thực hiện hợp đồng, mẹ con bà T, chị L nhiều lần vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Tính đến ngày 26 tháng 5 năm 2023, mẹ con bà T, chị L chỉ trả được một phần gốc và lãi, còn nợ gốc 83.319.927 đồng, nợ lãi 22.873.265 đồng và phạt lãi 1.096.050 đồng, tổng dư nợ là 107.289.242 đồng. Nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc mẹ con bà T, chị L trả cho Ngân hàng số nợ trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng thương mại cổ phần B cho mẹ con bà Bùi Thị T và chị Bùi Thị Ái L vay để mua sắm đồ dùng gia đình. Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ tranh chấp dân sự mà cụ thể là tranh chấp hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Mẹ con bà T, chị L cư trú tại xã P, huyện T, tỉnh Bình Định nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng mẹ con bà Bùi Thị T, chị Bùi Thị Ái L vắng mặt không có lý do nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt mẹ con bà T, chị L.

[3] Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án cho mẹ con bà Bùi Thị T, chị Bùi Thị Ái L cũng như triệu tập đến Tòa để giải quyết vụ án. Tuy nhiên mẹ con bà T, chị L không có mặt cũng không cung cấp văn bản ý kiến của mình về nội dung vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử chỉ căn cứ vào lời khai của Ngân hàng cũng như các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án. Mặc dù không có sự thừa nhận của mẹ con bà T, chị L nhưng thông qua Hợp đồng tín dụng có chữ ký của mẹ con bà T, chị L thì chứng tỏ mẹ con bà T, chị L có vay tiền tại Ngân hàng thương mại cổ phần B – Chi nhánh Bình Định.

[4] Xét yêu cầu trả nợ của Ngân hàng, Hội đồng xét xử nhận định: Căn cứ Hợp đồng tín dụng số HDTD4902021498 ngày 23 tháng 01 năm 2021, Chứng từ giải ngân giữa bên cho vay là Ngân hàng thương mại cổ phần B – Chi nhánh Bình Định và bên vay là mẹ con bà Bùi Thị T, chị Bùi Thị Ái L vay số tiền 100.000.000 đồng, để mua sắm đồ dùng gia đình, thỏa thuận lãi suất 8,5%/năm, lãi quá hạn đối với nợ gốc là 150% lãi suất trong hạn, lãi suất tiền vay cố định trong suốt thời gian vay vốn. Tính đến ngày 26 tháng 5 năm 2023, mẹ con bà T, chị L còn nợ của Ngân hàng số tiền nợ gốc 83.319.927 đồng, nợ lãi 22.873.265 đồng và phạt lãi 1.096.050 đồng, tổng dư nợ là 107.289.242 đồng. Do mẹ con bà T, chị L vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên căn cứ theo quy định tại các Điều 463, 466 của Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng, Hội đồng xét xử nhận định cần chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần B, buộc mẹ con bà T, chị L phải trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ gốc, lãi, phạt lãi nêu trên.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, mẹ con bà Bùi Thị T, chị Bùi Thị Ái L phải chịu 107.289.242 đồng x 5% = 5.365.000 đồng. Vì toàn bộ yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần B được chấp nhận nên Ngân hàng không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 463, 466 của Bộ luật dân sự; Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Buộc mẹ con bà Bùi Thị T, chị Bùi Thị Ái L trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần B tổng số tiền 107.289.242 (một trăm lẻ bảy triệu hai trăm tám mươi chín nghìn hai trăm bốn mươi hai) đồng; trong đó nợ gốc là 83.319.927 (tám mươi ba triệu ba trăm mười chín nghìn chín trăm hai mươi bảy) đồng, nợ lãi 22.873.265 (hai mươi hai triệu tám trăm bảy mươi ba nghìn hai trăm sáu mươi lăm) đồng và phạt lãi 1.096.050 (một triệu không trăm chín mươi sáu nghìn không trăm năm mươi) đồng.

Kể từ ngày 26 tháng 5 năm 2023, mẹ con bà T, chị L còn phải chịu khoảng tiền lãi, phạt chậm trả lãi tương ứng với lãi suất của Hợp đồng tín dụng số HDTD4902021498 ngày 23 tháng 01 năm 2021 trên số dư nợ gốc cho đến khi trả hết nợ.

2. Về án phí: Mẹ con bà Bùi Thị T, chị Bùi Thị Ái L phải chịu 5.365.000 (năm triệu ba trăm sáu mươi lăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần B 2.360.000 (hai triệu ba trăm sáu mươi nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí mà Ngân hàng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001301 ngày 24 tháng 11 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

75
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 89/2023/DS-ST

Số hiệu:89/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phước - Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về