Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 82/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 82/2024/DS-ST NGÀY 08/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 08 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 572/2023/TLST-DS ngày 06 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2024/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 75/2024/QĐST-DS ngày 20 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

- Ngân hàng thương mại cổ phần K;

Trụ sở: số D - 42 - D P, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Ngọc M, chức vụ/chức danh: Tổng giám đốc;

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Trung V, chức vụ/chức danh: Phó Tổng giám đốc;

Người đại diện theo ủy quyền lại:

- Ông Đinh Việt Q, chức vụ/chức danh: Giám đốc Phòng xử lý nợ;

- Ông Nguyễn Khoa H, chức vụ: Chuyên viên Xử lý nợ T và Tài chính vi mô - Phòng Xử lý nợ;

Nơi làm việc: Số D - 42 - D P, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Bà Phan Thị T1, sinh năm 1978;

Cư trú: Số I, khóm H, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang;

Ông Trần Minh S, sinh năm 1979;

Cư trú: Khu vực L, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Khoa H đại diện cho nguyên đơn có mặt; bà Phan Thị T1, ông Trần Minh S đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng thương mại c phần K (viết tắt là Ngân hàng) trình bày:

Bà Phan Thị T1 và ông Trần Minh S có ký kết Hợp đồng tín dụng số 1074/HĐTD ngày 20 tháng 5 năm 2009 với Ngân hàng K - Chi nhánh A để Ngân hàng cho ông, bà vay số tiền 120.000.000 đồng; mục đích vay: bổ sung vốn mua xe ô tô tải phục vụ gia đình và làm kinh tế phụ; thời hạn vay: 30 tháng, kể từ ngày bên vay vốn ký nhận nợ lần đầu; ngày giải ngân: 20 tháng 5 năm 2009; lãi suất vay: 1,2%/tháng; lãi suất nợ quá hạn: 150% (gấp 1,5 lần) lãi suất cho vay trước thời điểm nợ quá hạn; hình thức thanh toán: vốn vay chia đều trả hàng tháng, lãi trả hàng tháng. Biện pháp bảo đảm nợ vay: tài sản thế chấp của bên vay là xe ô tô tải nhãn hiệu JAC theo Hợp đồng bảo đảm số: HĐTD 1074 ngày 20 tháng 5 năm 2009.

Do quá trình thực hiện hợp đồng ông S và bà T1 đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Phan Thị T1 và ông Trần Minh S thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền tạm tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2023 cụ thể: nợ gốc 64.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn 7.356.800 đồng, lãi chậm trả là 39.485.577 đồng, lãi quá hạn là 318.960.400 đồng. Ngân hàng yêu cầu ông S, bà T1 phải tiếp tục trả tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn, phí, phạt phát sinh trên dư nợ gốc kể từ ngày 01 tháng 9 năm 2023 theo mức lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 1074/HĐTD ngày 20 tháng 5 năm 2009 cho đến khi thanh toán dứt nợ.

Tại các phiên hòa giải, Ngân hàng tự nguyện rút lại yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu bà T1, ông S phải trả số tiền phạt lãi, phạt chậm trả lãi.

Ngân hàng không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với tài sản thế chấp là xe ô tô biển số 67M - 0786 nhãn hiệu JAC và Hợp đồng bảo đảm số HĐTD 1074 ngày 20 tháng 5 năm 2009.

Bị đơn bà Phan Thị T1 và ông Trần Minh S: Vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án.

Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành hòa giải nhưng bị đơn đều vắng mặt không lý do, nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Tại phiên tòa:

- Ông Nguyễn Khoa H đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và ý kiến đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án. Yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà T1 và ông S phải liên đới trả cho Ngân hàng số tiền tạm tính đến ngày 08 tháng 3 năm 2024 tổng cộng là 403.693.200 đồng, trong đó nợ gốc là 64.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 7.356.800 đồng, nợ lãi quá hạn là 332.336.400 đồng. Yêu cầu bà T1 và ông S phải tiếp tục chịu lãi trong hạn, lãi quá hạn từ ngày 09 tháng 3 năm 2024 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo quy định tại Hợp đồng tín dụng. Nguyên đơn vẫn tự nguyện rút lại yêu cầu khởi kiện đối với việc yêu cầu bà T1, ông S phải trả số tiền nợ phạt lãi, nợ phạt chậm trả lãi. Ngân hàng không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với tài sản thế chấp và hợp đồng bảo đảm.

- Bà Phan Thị T1 và ông Trần Minh S vắng mặt và không cung cấp ý kiến, tài liệu, chứng cứ.

Đại diện Viện kim sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật t tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Các bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án, không trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn, là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Căn cứ nội dung, các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp thì ông S và bà T1 có ký kết Hợp đồng tín dụng như nguyên đơn trình bày. Hợp đồng tín dụng có chữ ký của ông S, bà T1, các bên giao kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật, nội dung đã thỏa thuận quyền và nghĩa vụ của các bên, số tiền, mục đích và thời hạn vay, phương thức, cam kết trả nợ,... Do đó giao kết hợp đồng giữa các bên có giá trị pháp lý. Vì ông S, bà T1 đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, không thực hiện đúng như nội dung thỏa thuận nên việc Ngân hàng yêu cầu ông S, bà T1 phải thực hiện nghĩa vụ trả vốn gốc, lãi chưa thành toán là có cơ sở. Căn cứ Điều 463, 466, 468, 470 Bộ luật Dân sự; Điều 91, 95 Luật các Tổ chức tín dụng; Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn xác định rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc trả tiền phạt lãi; tiền phạt chậm trả lãi do đây là quyền quyết định, tự định đoạt của đương sự, không vi phạm điều cấm của pháp luật nên đề nghị đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại Điều 5, Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng khởi kiện bà Phan Thị T1 và ông Trần Minh S yêu cầu trả tiền vốn vay và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng. Bị đơn bà T1 có nơi cư trú tại địa bàn thành phố L. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.

[2] Về tố tụng:

[2.1] Bị đơn bà T1 và ông S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2.2] Theo nguyên đơn trình bày, khi vay vốn tại Ngân hàng, bà T1 và ông S có thể chấp tài sản là xe ô tô để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, Ngân hàng không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với tài sản thế chấp, không tranh chấp về hợp đồng thế chấp, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về nội dung:

[3.1] Hội đồng xét xử xét thấy: Ngân hàng và bà T1, ông S đã xác lập theo Hợp đồng tín dụng số 1074/HĐTD ngày 20 tháng 5 năm 2009, hợp đồng này được ký kết trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, hình thức và nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, phù hợp với quy định của pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo quy định tại các Điều 471, 474 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, phía bà T1, ông S đã thực hiện nghĩa vụ trả vốn, lãi theo kỳ được một thời gian thì dừng và không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả vốn, lãi đúng hạn là vi phạm nghĩa vụ của bên vay và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên cho vay. Trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án, bà T1, ông S không cung cấp tài liệu, chứng cứ và ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Do đó, yêu cầu của Ngân hàng về việc trả nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn là có cơ sở để chấp nhận.

[3.2] Đối với yêu cầu trả lãi của Ngân hàng: Theo Hợp đồng tín dụng số 1074/HĐTD ngày 20 tháng 5 năm 2009, các bên đã thỏa thuận về việc bị đơn phải chịu lãi trong hạn, lãi quá hạn do chậm trả nợ gốc, phạt chậm trả lãi. Xét thấy: Bà T1, ông S đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo kỳ, khoản vay của bà T1, ông S đã chuyển sang nợ quá hạn từ thời điểm bà T1, ông S dừng thanh toán từ ngày 20 tháng 8 năm 2010. Trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án, bà T1, ông S không cung cấp tài liệu, chứng cứ và ý kiến phản đối về số tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn, mức lãi suất phải chịu. Mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng và tại thời điểm yêu cầu thanh toán phù hợp với quy định tại Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng và khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, yêu cầu của Ngân hàng đối với phần tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn là có cơ sở để chấp nhận.

[3.3] Đối với yêu cầu trả tiền phạt lãi và tiền phạt chậm trả lãi: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng đều xác định Ngân hàng tự nguyện rút lại yêu cầu khởi kiện đối với số tiền phạt lãi, phạt chậm trả lãi, không yêu cầu ông S, bà T1 trả số tiền phạt này. Xét thấy, việc rút yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đối với số tiền phạt này là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định tại Điều 7 và Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, cần đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này của nguyên đơn.

[3.4] Từ những phân tích trên, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, buộc bà T1, ông S có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng tổng số tiền tạm tính đến ngày 08 tháng 3 năm 2024 tổng cộng là 403.693.200 đồng, trong đó nợ gốc là 64.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 7.356.800 đồng, nợ lãi quá hạn là 332.336.400 đồng. Đồng thời, kể từ ngày 08 tháng 3 năm 2024, buộc bà T1, ông S còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên Ngân hàng không phải chịu án phí sơ thẩm; bà T1, ông S phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, các Điều 217, 244, 227, 271, 273, 278, 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Các Điều 463, 466, 470, 688 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Khoản 14 và khoản 16 Điều 4, Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng.

- Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần K đối với bà Phan Thị T1 và ông Trần Minh S.

- Buộc bà Phan Thị T1 và ông Trần Minh S có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần K số tiền tạm tính đến ngày 08 tháng 3 năm 2024 tổng cộng là 403.693.200 đồng (bốn trăm linh ba triệu sáu trăm chín mươi ba nghìn hai trăm đồng), trong đó nợ gốc là 64.000.000 đồng (sáu mươi bốn triệu), nợ lãi trong hạn là 7.356.800 đồng (bảy triệu ba trăm năm mươi sáu nghìn tám trăm đồng), nợ lãi quá hạn là 332.336.400 đồng (ba trăm ba mươi hai triệu ba trăm ba mươi sáu nghìn bốn trăm đồng).

- Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (08 tháng 3 năm 2024) bà Phan Thị T1 và ông Trần Minh S còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 1074/HĐTD ngày 20 tháng 5 năm 2009 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong Hợp đồng tín dụng số 1074/HĐTD ngày 20 tháng 5 năm 2009, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

- Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần K khởi kiện bà Phan Thị T1 và ông Trần Minh S về việc yêu cầu bà Phan Thị T1 và ông Trần Minh S phải trả số tiền phạt lãi và phạt chậm trả lãi (lãi chậm trả).

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Phan Thị T1 và ông Trần Minh S phải chịu 20.147.728 đồng (hai mươi triệu một trăm bốn mươi bảy nghìn bảy trăm hai mươi tám đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng thương mại cổ phần K không phải chịu án phí sơ thẩm nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.596.056 đồng (mười triệu năm trăm chín mươi sáu nghìn không trăm năm mươi sáu đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001174 ngày 29 tháng 11 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

3. Về quyền kháng cáo:

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 82/2024/DS-ST

Số hiệu:82/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về