TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PƯH, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 63/2021/DS-ST NGÀY 12/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 12 tháng 11 năm 2021, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 168/2020/TLST- DS ngày 31 tháng 7 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2021/QĐXXST - DS ngày 22 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Công thương Việt Nam
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Đức T - Chủ tịch HĐQT Địa chỉ: số ** đường T, thành phố HN
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Anh Q – Phó giám đốc Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai Địa chỉ: 01 Trần Hưng Đạo, thành phố P, tỉnh Gia Lai (Theo văn bản uỷ quyền số 266/UQ-HĐQT-NHCT18, ngày 16/3/2020).
Bị đơn: Bà Hoàng Thị H, sinh năm 1975 Địa chỉ: Thôn Sur B, xã IH, huyện CP, tỉnh Gia Lai.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Hoàng Xuân Đ, sinh năm 1968 Địa chỉ: Thôn Sur B, xã IH, huyện CP, tỉnh Gia Lai.
2. Ông Võ Thành T1 Địa chỉ: Thôn Tung Chrêh, xã ID, huyện CP, tỉnh Gia Lai
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 09/01/2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo uỷ quyền của Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Sau đây gọi tắt là Ngân hàng) trình bày:
Theo hợp đồng cho vay số 92/2019/HĐCV/NHCT500-HOANGTHIHUONG ngày 30/01/2019 thì Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai – Phòng giao dịch CS cho bà Hoàng Thị H vay số tiền 150.000.000 đồng, thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày tiếp theo của ngày giải ngân khoản nợ đầu tiên (Từ ngày 30/01/2019 đến 30/01/2020), ngày giải ngân là ngày 30/01/2019, mục đích vay để đầu tư chăm sóc vườn tiêu và cà phê kinh doanh. Lãi suất cho vay trong hạn là 11,3%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn, áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, tiền lãi phải trả hàng tháng vào ngày 01 của tháng.
Theo hợp đồng cho vay số 688/2018/HĐCV/NHCT500- HOANGTHIHUONG ngày 21/8/2018 thì Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai – Phòng giao dịch CS cho bà Hoàng Thị H vay số tiền 250.000.000 đồng, thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày tiếp theo của ngày giải ngân khoản nợ đầu tiên (Từ ngày 21/8/2018 đến 21/8/2019), ngày giải ngân là ngày 21/8/2018, mục đích vay để đầu tư chăm sóc cây hồ tiêu và cây cà phê kinh doanh. Lãi suất cho vay trong hạn là 10,3%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn, áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, tiền lãi phải trả hàng tháng vào ngày 01 của tháng.
Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 110/HĐTC ngày 28/01/2016, công chứng ngày 28/1/2016 tại Văn phòng Công chứng CS. Để đảm bảo cho các khoản vay nói trên, bà Hoàng Thị H và ông Ngô Xuân Đ đã thế chấp cho Ngân hàng những tài sản sau:
Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 62, tờ bản đồ số 57, tại thôn Tung Chrêh, xã ID, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859533, do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 22/7/2015.
Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 902/HĐTC ngày 12/8/2016, công chứng ngày 12/8/2016 tại Văn phòng Công chứng CS. Để đảm bảo cho các khoản vay nói trên, bà Hoàng Thị H và ông Ngô Xuân Đ đã thế chấp cho Ngân hàng những tài sản sau:
Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 138, tờ bản đồ số 13, tại thôn Sur B, xã IH, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859536, do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 23/7/2015.
Sau khi ký kết các hợp đồng tín dụng nói trên, ngân hàng đã giải ngân tiền vay cho bà H theo đúng thoả thuận. Quá trình thực hiện các hợp đồng tín dụng nói trên bà H đã trả lãi cho Ngân hàng đến hết tháng 4/2019, sau đó không thanh toán lãi và gốc theo như thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết.
Tính đến thời điểm xét xử vụ án, bà H còn nợ ngân hàng tổng cộng là 536.127.354 đồng. Ngân hàng đã nhiều lần mời bà H đến làm việc, đề nghị thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng không đạt kết quả.
Nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án nhân dân huyện CP giải quyết buộc bà H và ông Ngô Xuân Đ phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai số tiền nợ gốc, lãi tính đến ngày 12/11/2021 và chi phí khác cụ thể như sau: Nợ gốc và lãi phải trả là 536.127.354 đồng; trong đó nợ gốc là 400.000.000 đồng; lãi trong hạn là 96.918.602 đồng, lãi quá hạn là 39.208.752 đồng. Chi phí xem xét thẩm định là 4.000.000 đồng. (Nguyên đơn không yêu cầu tính lãi chậm thi hành án đối với khoản tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và tiền phạt chậm trả lãi tối đa bằng 10%/năm tính trên dư nợ lãi).
Trong trường hợp bà H, ông Đ không thanh toán toàn bộ số nợ gốc, lãi và các chi phí khác như đã nêu trên, thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự xử lý, phát mãi tài sản đã thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 902/HĐTC ngày 12/8/2016 và hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 110/HĐTC ngày 28/01/2016 để thu hồi nợ.
Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Tòa án đã nhiều lần triệu tập, thông báo và niêm yết đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà H và ông Đ đều vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã triệu tập hợp lệ để bà H, ông Đ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng ông, bà tiếp tục vắng mặt, không có lời khai, không cung cấp tài liệu chứng cứ gì để Hội đồng xét xử xem xét.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Thành T1: Là người trực đang tiếp quản lý, sử dụng thửa đất số 62, tờ bản đồ số 57, tại thôn Tung Chrêh, xã ID, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859533, do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 22/7/2015. Quá trình giải quyết vụ án, toà án đã nhiều lần triệu tập, thông báo và niêm yết đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông T1 đều vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã triệu tập hợp lệ để ông đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng ông tiếp tục vắng mặt, không có lời khai, không cung cấp tài liệu chứng cứ gì để Hội đồng xét xử xem xét.
Qua buổi xem xét thẩm định tại chỗ vào ngày 10/9/2020, Tòa án nhân dân huyện CP xác định như sau:
Tại thời điểm xem xét, thẩm định tại chỗ thì quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 62, tờ bản đồ số 57, tại thôn Tung Chrêh, xã ID, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859533, do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 22/7/2015. Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 138, tờ bản đồ số 13, tại thôn Sur B, xã IH, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859536, do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 23/7/2015, chưa có phát sinh việc tranh chấp với bên thứ ba (Ông T1 cho rằng đang thuê thửa đất số 62, tờ bản đồ số 57, tại thôn Tung Chrêh, xã ID, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859533, do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 22/7/2015 của bà H, ông Đ và không có yêu cầu hay ý kiến gì).
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CP, tỉnh Gia Lai như sau:
Về việc tuân theo pháp luật của cơ quan và người tiến hành tố tụng: Đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, tuy có một số vi phạm nhưng không ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, cần rút kinh nghiệm.
Về việc chấp hành của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án và cung cấp đầy đủ chứng cứ đảm bảo theo đúng quy định. Bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Về phần nội dung: Căn cứ các Điều 280, 463, 465, 466, 468 Bộ luật Dân sự; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; các Điều 156, 157, 158 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng: Buộc bà Hường và ông Đấu có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai số tiền nợ gốc là 400.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng hai bên đã ký kết. Trường hợp bà H, ông Đ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì nguyên đơn có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Buộc bà H, ông Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ theo quy định của pháp luật, hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện CP, tỉnh Gia Lai giải quyết Tranh chấp Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng với bị đơn bà Hoàng Thị H có địa chỉ tại thôn Sur B, xã IH, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện CP, tỉnh Gia Lai.
Tại phiên tòa, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt đến lần thứ hai không vì trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:
Theo các hợp đồng tín dụng số 688/2018/HĐCV/NHCT500- HOANGTHIHUONG ngày 21/8/2018; hợp đồng tín dụng số 92/2019/HĐCV/NHCT500-HOANGTHIHUONG ngày 30/01/2019, thì Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai cho bà Hoàng Thị H vay tổng số tiền 400.000.000 đồng, thời hạn cho vay là 12 tháng kể từ ngày giải ngân khoản nợ đầu tiên, lãi suất cho vay trong hạn từ 10,3% đến 11,3%/năm, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn (Được xác định theo từng hợp đồng tín dụng cụ thể).
Ngân hàng đã giải ngân tiền vay cho bà H theo đúng thỏa thuận. Tính đến thời điểm xét xử bà H còn nợ tổng cộng là 536.127.354 đồng; trong đó nợ gốc là 400.000.000 đồng; lãi trong hạn là 96.918.602 đồng, lãi quá hạn là 39.208.752 đồng. Quá trình thực hiện các hợp đồng tín dụng nói trên, bà H đã trả lãi cho Ngân hàng đến hết tháng 4 năm 2019, sau đó không thanh toán lãi và gốc theo như thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng mà các bên đã kí kết. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả tiền nợ lãi và nợ gốc nên nguyên đơn đã chuyển toàn bộ khoản nợ trên sang nợ quá hạn từ các ngày 30/01/2020 và 21/8/2019 (Được xác định theo từng hợp đồng cụ thể). Ngân hàng đã nhiều lần làm việc và thông báo chuyển nợ quá hạn, yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng bà H không thanh toán nợ. Như vậy, bà H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ quy định tại khoản 1 Điều 466, khoản 2 Điều 470 Bộ luật Dân sự.
Tại thời điểm nguyên đơn khởi kiện, khoản nợ tại hợp đồng tín dụng số 92/2019-HĐCV/NHNT500-HOANGTHIHUONG chưa đến hạn trả nợ gốc. Tuy nhiên, do bà H đã vi phạm nội dung đã được thoả thuận tại mục a điểm 9.1 Điều 9 về chấm dứt cho vay và thu hồi nợ trước thời hạn nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải thanh toán khoản nợ trên trước thời hạn là có căn cứ.
Nợ gốc và lãi phải trả là 536.127.354 đồng; trong đó nợ gốc là 400.000.000 đồng; lãi trong hạn là 96.918.602 đồng, lãi quá hạn là 39.208.752 đồng (Nguyên đơn không yêu cầu tính lãi suất phạt chậm trả lãi).
Lãi suất được tính theo thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng là phù hợp với quy định tại Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng.
Xét thấy, tại thời điểm giao kết hợp đồng tín dụng bà Hoàng Thị H và ông Ngô Xuân Đ là vợ chồng hợp pháp, mục đích vay tiền để làm kinh tế gia đình. Do vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn bà Hoàng Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngô Xuân Đ có nghĩa vụ liên đới trả cho nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai tiền gốc và lãi tính đến ngày 12/11/2021 tổng cộng là 536.127.354 đồng; trong đó nợ gốc là 400.000.000 đồng; lãi trong hạn là 96.918.602 đồng, lãi quá hạn là 39.208.752 đồng.
[3]. Đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của nguyên đơn trong trường hợp bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và nợ lãi cho nguyên đơn:
Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 110/HĐTC ngày 28/01/2016, công chứng ngày 28/01/2016 tại Văn phòng Công chứng CS. Để đảm bảo cho khoản vay nói trên, bà Hoàng Thị H và ông Ngô Xuân Đ đã thế chấp cho Ngân hàng những tài sản sau:
Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 62, tờ bản đồ số 57, tại thôn Tung Chrêh, xã ID, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859533, do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 22/7/2015.
Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 902/HĐTC ngày 12/8/2016, công chứng ngày 12/8/2016 tại Văn phòng Công chứng CS. Để đảm bảo cho khoản vay nói trên, bà Hoàng Thị H và ông Ngô Xuân Đ đã thế chấp cho Ngân hàng những tài sản sau:
Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 138, tờ bản đồ số 13, tại thôn Sur B, xã IH, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859536, do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 23/7/2015.
Qua buổi xem xét, thẩm định tại chỗ vào ngày 10/9/2020, Tòa án nhân dân huyện CP xác định như sau: Tại thời điểm xem xét, thẩm định tại chỗ thì quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 62, tờ bản đồ số 57, tại thôn Tung Chrêh, xã ID, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859533, do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 22/7/2015. Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 138, tờ bản đồ số 13, tại thôn Sur B, xã IH, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859536, do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 23/7/2015, chưa có phát sinh việc tranh chấp với bên thứ ba.
Xét thấy, hình thức và nội dung của Hợp đồng thế chấp phù hợp với quy định tại các Điều 292, 293, 295, 298, 317, 318 và Điều 319 Bộ luật Dân sự nên có hiệu lực pháp luật.
Bên thế chấp dùng tài sản thế chấp để đảm bảo cho các khoản nợ gốc, lãi và tất cả các nghĩa vụ liên quan khác. Theo quy định tại khoản 6 Điều 320 và khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Dân sự thì trong trường hợp đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên thế chấp phải giao tài sản thế chấp để xử lý. Vì vậy, yêu cầu của Ngân hàng đề nghị xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo cho các khoản vay tại hợp đồng tín dụng nêu trên để thu hồi nợ khi bà H, ông Đ không trả hết nợ cho Ngân hàng là có căn cứ, đúng pháp luật nên cần chấp nhận.
Mặc dù tại thời điểm xem xét, thẩm định tại chỗ ông Võ Thành T1 đang trực tiếp quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của thửa đất số 62, tờ bản đồ số 57, tại thôn Tung Chrêh, xã ID, huyện CP, tỉnh Gia Lai, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859533, do UBND huyện CP, tỉnh Gia Lai cấp ngày 22/7/2015. Tuy nhiên, ông không có yêu cầu hay ý kiến gì. Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã thông báo, tống đạt đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng để ông thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhưng ông đều cố tình vắng mặt, không có lời khai, không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét việc thuê đất giữa ông với vợ chồng bà H, ông Đ. Trường hợp ông T1 có yêu cầu thì có quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác.
[4]. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng, bị đơn bà Hoàng Thị H và ông Ngô Xuân Đ phải liên đới chịu. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng chi phí này nên cần buộc bà H, ông Đ có nghĩa vụ liên đới trả lại 4.000.000 đồng cho nguyên đơn là phù hợp với Điều 156, 157 và khoản 1 Điều 158 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[5]. Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước, hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 156, Điều 157, khoản 1 Điều 158, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 292, 293, 295, 298, 299, 317, 318, 319, 320, 322, 357, 463, 466, 468 và Điều 470 của Bộ luật Dân sự; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; Áp dụng các Điều 90, 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng;
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1. Buộc bị đơn bà Hoàng Thị H và ông Ngô Xuân Đ có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai – Phòng giao dịch CP số tiền gốc và nợ lãi tính đến ngày 12/11/2021 tổng cộng là 536.127.354 đồng (Năm trăm ba mươi sáu triệu, một trăm hai mươi bảy ngàn ba trăm năm mươi bốn đồng); trong đó nợ gốc là 400.000.000 đồng; lãi trong hạn là 96.918.602 đồng, lãi quá hạn là 39.208.752 đồng.
“Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này’’. (Trường hợp trong Hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay).
2. Trường hợp bà H, ông Đ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đầy đủ gốc và lãi cho nguyên đơn thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý, phát mãi tài sản thế chấp mà bị đơn bà Hoàng Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngô Xuân Đ đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 110/HĐTC ngày 28/01/2016 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 902/HĐTC ngày 12/8/2016, đã được các bên ký kết để thu hồi nợ.
3. Về án phí: Buộc bà Hoàng Thị H và ông Ngô Xuân Đ liên đới chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm là 25.445.094 đồng (Hai mươi lăm triệu, bốn trăm bốn mươi lăm ngàn, không trăm chín mươi bốn đồng); (536.127.354 đồng = 20.000.000 đồng + 136.127.354 x 4%) = 25.445.094 đồng) để sung vào công quỹ Nhà nước.
Trả lại cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.200.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0006339 ngày 30/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện CP, tỉnh Gia Lai.
4. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Buộc bà Hoàng Thị H và ông Ngô Xuân Đ liên đới thanh toán lại chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam thông qua Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Gia Lai.
5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
6. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 63/2021/DS-ST
Số hiệu: | 63/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chư Pưh - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 12/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về