Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 60/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 60/2023/DS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 06 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 27/2023/TLST- DS ngày 10 tháng 02 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, giữa:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) P; Địa chỉ trụ sở chính: Số 41 - 45 D, phường B, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Văn T, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng Quản trị. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Đình Q, chức vụ: Giám đốc Phòng Giao dịch X, địa chỉ liên hệ: 86 đường X, phường B, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Ông Q ủy quyền cho ông Đinh Văn Q tham gia tố tụng (theo văn bản ủy quyền số 02/GUQ - OCB.23 ngày 05/01/2023) - (Ông Q có mặt);

- Bị đơn: Ông Nguyễn Mai H, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Thị Thúy K, sinh năm 1978;

Cùng địa chỉ cư trú: Tổ 40, phường K, quận T, thành phố Đà Nẵng - (Ông H và bà K vắng mặt);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Huỳnh Viết T, sinh năm 1973 và bà Trần Thị Thùy Tr, sinh năm 1982; Cùng địa chỉ: Lê Hữu Trác, phường A, quận S, TP Đà Nẵng - (Ông T có mặt, bà Tr vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, ông Đinh Văn Q trình bày:

Ngân hàng Thương mại Cổ phần P - Chi nhánh Trung Việt - Phòng Giao dịch X (Sau đây gọi tắt là Ngân hàng P) với Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K đã ký Hợp đồng tín dụng số ST0517/2020/PNU/HĐTD ngày 13/11/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số ST0517/2020/PNU/HĐTD-SĐBS-01 ngày 17/11/2020. Theo Hợp đồng tín dụng này, Ngân hàng đồng ý cho Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K vay số tiền là 8.700.000.000 đồng (Tám tỷ bảy trăm triệu đồng) với lãi suất được quy định cụ thể tại Hợp đồng tín dụng trên. Ngày 16/11/2020, Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K đã ký giấy nhận nợ và nhận số tiền trên tại Ngân hàng P.

Tài sản đảm bảo cho khoản vay trên là bất động sản tại địa chỉ: Thửa đất số 156, tờ bản đồ số 15, K54/30 Lê Hữu Trác, phường An Hải Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 024951, Số vào sổ cấp GCN: CTs 22448, do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 14/08/2013. Tài sản trên đã được Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K thế chấp để vay vốn Ngân hàng theo Hợp đồng thế chấp số ST0517.01/2020/PNU/HĐTC ngày 17/11/2020, đã được Văn phòng Công chứng Trần Văn Hùng Thành phố Đà Nẵng chứng thực và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định.

Tiếp đến ngày 13/01/2021 Ngân hàng với bà Nguyễn Thị Thúy K đã ký Hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng số 0015 ngày 13/01/2021. Theo Hợp đồng này, Ngân hàng đồng ý cấp hạn mức tín dụng thẻ cho bà Nguyễn Thị Thúy K là 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng).

Từ thời điểm nhận nợ cho đến nay Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K đã liên tiếp vi phạm các kỳ trả nợ cho Ngân hàng. Mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần tạo điều kiện cho Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K trả nợ đúng kỳ hạn, nhưng mọi thiện chí của Ngân hàng đều không được ông H và bà K đáp trả. Khoản vay này Ngân hàng chúng tôi chưa bán nợ cho Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Tại phiên hòa Tòa hôm nay, tôi vẫn giữ nguyên yêu cầu đã thể hiện tại đơn khởi kiện, cụ thể:

1. Buộc Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K phải trả toàn bộ nợ vay theo Hợp đồng tín dụng số: ST0517/2020/PNU/HĐTD ngày 13/11/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số ST0517/2020/PNU/HĐTD-SĐBS-01 ngày 17/11/2020 với tổng số tiền 9.274.576.619 đồng, trong đó nợ gốc: 7.938.749.797 đồng, nợ lãi tạm tính đến ngày 06/9/2023 là 1.335.826.822 đồng ( gồm nợ lãi trong hạn: 1.228.377541 đồng; nợ lãi quá hạn: 107.449.821 đồng). Ngoài ra Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền lãi phát sinh theo lãi suất được quy định tại các Hợp đồng tín dụng nêu trên kể từ ngày 07/9/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

2. Trường hợp Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi, thì tài sản thế chấp là nhà và đất tại Thửa đất số 156, tờ bản đồ số 15, K54/30 Lê Hữu Trác, phường An Hải Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 024951, Số vào sổ cấp GCN: CTs 22448, do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 14/08/2013 được phát mãi để thu hồi nợ cho Ngân hàng P.

3. Buộc bà Nguyễn Thị Thúy K phải trả toàn bộ nợ vay theo Hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng số 0015 ngày 13/01/2021 với tổng số tiền là:

313.661.965 đồng, trong đó nợ gốc: 150.000.000 đồng; nợ lãi tạm tính đến ngày 06/9/2023 là 163.661.965 đồng (gồm nợ lãi trong hạn: 90.152.089 đồng, nợ lãi quá hạn: 73.509.876 đồng). Ngoài ra, bà Nguyễn Thị Thúy K phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền lãi phát sinh theo lãi suất được quy định tại Hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng số: 0015 ngày 13/01/2021 kể từ ngày 07/9/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

* Bị đơn là Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K:

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện tống đạt các văn bản tố tụng cho ông H bà bà K, nhưng ông H bà bà K không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; không tham gia phiên tòa, không gửi cho Tòa án văn bản về ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Huỳnh Viết T và bà Trần Thị Thùy Tr:

Tại Bản trình bày ngày 31/7/2023, ông Huỳnh Viết T nêu ý kiến:

Vợ chồng ông T với vợ chồng Ông Nguyễn Mai H, bà Nguyễn Thị Thúy K có mối quan hệ sui gia với nhau. Ông Huỳnh Viết T và bàTrần Thị Thùy Tr nguyên trước đây là chủ sở hữu ngôi nhà tại địa chỉ K54/30 Lê Hữu Trác, phường An Hải Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, thuộc thửa đất số 156, Tờ bản đồ số 15. Ngày 17/11/2020 vợ chồng ông T chuyển nhượng ngôi nhà nói trên cho ông H và bà K. Ông H và K có nợ của vợ chồng ông T số tiền 10 tỷ đồng, nên ông H và bà K đồng ý để vợ chồng ông T, bà Tr tiếp tục quản lý, sử dụng ngôi nhà nói trên cho đến hôm nay. Khi nào vợ chồng ông H, bà K trả đủ số tiền nợ thì vợ chồng ông T sẽ bàn giao lại ngôi nhà K54/30 Lê Hữu Trác cho ông H, bà K.

Về việc Ngân hàng P khởi kiện đối với Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K thì ông T, bà Tr không có ý kiến gì.

* Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Tòa án nhân dân quận Thanh khê đã căn cứ vào Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền. Tòa án đã tiến hành việc thu thập chứng cứ đảm bảo theo quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự. Thời hạn chuẩn bị xét xử, việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng được đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân theo đúng quy định của pháp luật.

- Đối với các đương sự:

+ Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng;

+ Bị đơn, mặc dù đã được Tòa án thực hiện việc cấp tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng trình tự do pháp luật quy định, nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và cũng không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến, không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều: 70,72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Huỳnh Viết T thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các điều: 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bà bàTrần Thị Thùy Tr không thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định.

2. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 463, 466 Bộ luật dân sự; các Điều 91,95 Luật các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” của nguyên đơn là Ngân hàng TMCP P đối với bị đơn là Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K.

- Buộc Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP P tổng số tiền nợ tính đến ngày 06/9/2023 là 9.274.576.619 đồng, trong đó nợ gốc: 7.938.749.797 đồng, nợ lãi tạm tính đến ngày 06/9/2023 là 1.335.826.822 đồng. Ngoài ra ông H và bà K phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền lãi phát sinh theo lãi suất được quy định tại Hợp đồng tín dụng số: ST0517/2020/PNU/HĐTD ngày 13/11/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số: ST0517/2020/PNU/HĐTD-SĐBS-01 ngày 17/11/2020 kể từ ngày 07/9/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

- Trường hợp Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi, thì xử lý tài sản thế chấp là nhà và đất tại Thửa đất số 156, tờ bản đồ số 15, K54/30 Lê Hữu Trác, phường An Hải Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 024951, Số vào sổ cấp GCN: CTs 22448, do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 14/08/2013 theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ cho Ngân hàng P.

- Buộc bà Nguyễn Thị Thúy K phải trả toàn bộ nợ vay theo Hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng số 0015 ngày 13/01/2021 với tổng số tiền là:

313.661.965 đồng, trong đó nợ gốc: 150.000.000 đồng; nợ lãi tạm tính đến ngày 06/9/2023 là 163.661.965 đồng. Bà K còn phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng số tiền lãi phát sinh theo lãi suất được quy định tại Hợp đồng nói trên kể từ ngày 07/9/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả việc hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[ 1] Về thủ tục tố tụng:

- Nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần P (Ngân hàng P) khởi kiện đối với Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K về việc “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng”. Bị đơn có địa chỉ cư trú cuối cùng tại: Tổ 40, phường K, quận T, thành phố Đà Nẵng. Như vậy, Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thụ lý, giải quyết vụ án dân sự nói trên là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Q định đưa vụ án ra xét xử và Q định hoãn phiên tòa, nhưng bị đơn là Ông Nguyễn Mai H, bà Nguyễn Thị Thúy K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Thùy Tr vẫn vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, xét xử vắng mặt đối với những người tham gia tố tụng nêu trên.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì thấy:

- Căn cứ Hợp đồng tín dụng số: ST0517/2020/PNU/HĐTD, ngày 13/11/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số: ST0517/2020/PNU/HĐTD- SĐBS-01 ngày 17/11/2020 thì Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K có vay của Ngân hàng P số tiền là 8.700.000.000 đồng (Tám tỷ bảy trăm triệu đồng) với lãi suất được quy định cụ thể tại Hợp đồng tín dụng nói trên. Tài sản đảm bảo cho khoản vay trên là bất động sản tại địa chỉ: Thửa đất số 156, tờ bản đồ số 15, K54/30 Lê Hữu Trác, phường An Hải Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 024951, Số vào sổ cấp GCN: CTs 22448, do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 14/08/2013. Tuy nhiên, theo đại diện bên nguyên đơn trình bày thì tính đến ngày 06/9/2023, Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K nợ của Ngân hàng P tổng số tiền là: 9.274.576.619 đồng, trong đó nợ gốc:

7.938.749.797 đồng, nợ lãi là 1.335.826.822 đồng. Do vậy, Ngân hàng P đề nghị Tòa án buộc ông H và bà K phải thanh toán toàn bộ khoản tiền nợ nêu trên và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng đã ký kết.

Trường hợp ông H và K không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi, thì đề nghị Tòa án xử lý tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng P.

- Căn cứ Hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng số 0015 ngày 13/01/2021 thì bà Nguyễn Thị Thúy K đã được Ngân hàng P cấp hạn mức tín dụng với số là 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng).

Tính đến ngày 06/9/2023, bà K nợ của Ngân hàng P tổng số tiền: 313.661.965 đồng, trong đó nợ gốc: 150.000.000 đồng; nợ lãi tạm tính đến ngày 06/9/2023 là 163.661.965 đồng. Vì vậy, nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị Thúy K phải thanh toán cho Ngân hàng toàn bộ khoản nợ nêu trên và tiền lãi phát sinh kể từ ngày 07/9/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ nợ theo Hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng số 0015 ngày 13/01/2021.

[3] Xét bị đơn là Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K thì thấy:

Trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý đến nay, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của đương sự. Tuy nhiên ông H và bà K không thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định của pháp luật. Điều này chứng tỏ bị đơn không quan tâm đến yêu cầu khởi kiện của bên nguyên đơn, không bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và không bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn.

Tòa án nhân dân quận Thanh Khê tiến hành xác minh thì được biết Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K đã bán nhà đi khỏi nơi cư trú. Tòa án thực hiện thủ tục nhắn tin, đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật, nhưng ông H và bà K vẫn không đến Tòa án để giải quyết vụ kiện này. Việc này chứng tỏ ông H và bà K cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.

[4] Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K phải thanh toán cho Ngân hàng P tổng số tiền nợ tính đến ngày 06/9/2023 là: 9.274.576.619 đồng, trong đó nợ gốc: 7.938.749.797 đồng, nợ lãi là 1.335.826.822 đồng. Đồng thời buộc ông H và bà K phải tiếp tục thanh toán các khoản lãi trong hạn, lãi quá hạn kể từ ngày 07/9/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo Hợp đồng tín dụng số: ST0517/2020/PNU/HĐTD, ngày 13/11/2020 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số: ST0517/2020/PNU/HĐTD-SĐBS-01 ngày 17/11/2020 là có căn cứ.

Trường hợp ông H và K không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi, thì tài sản đã thế chấp để đảm bảo cho khoản vay của các Hợp đồng nêu trên sẽ được xử lý theo Điều 303 của Bộ luật dân sự.

- Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị Thúy K phải thanh toán cho Ngân hàng P tổng số tiền nợ tính đến ngày 06/9/2023 là 313.661.965 đồng, trong đó nợ gốc: 150.000.000 đồng; nợ lãi tạm tính đến ngày 06/9/2023 là 163.661.965 đồng. Đồng thời bà K phải tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh kể từ ngày 07/9/2023 cho đến khi thanh toán đầy đủ các khoản nợ theo Hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng số 0015 ngày 13/01/2021.

* Hội đồng xét xử xét thấy: Yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở, phù hợp với quy định tại các điều: 280, 463 và 466 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 91,95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm nên cần chấp nhận.

[5] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Huỳnh Viết T và bà Trần Thị Thùy Tr:

Hội đồng xét xử xét thấy nguyên trước đây ông Huỳnh Viết T và bà Trần Thị Thùy Tr là chủ sở hữu ngôi nhà tại địa chỉ K54/30 Lê Hữu Trác, phường An Hải Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, thuộc thửa đất số 156, Tờ bản đồ số 15. Ngày 17/11/2020 vợ chồng ông T, bà Tr đã chuyển nhượng ngôi nhà nói trên cho Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K. Mặc dù hiện nay ông T và bà Tr đang quản lý, sử dụng ngôi nhà K54/30 Lê Hữu Trác, nhưng về cơ sở pháp lý thì Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K đang là chủ sở hữu ngôi nhà nói trên. Tài sản này đã được ông H và bà K thế chấp cho Ngân hàng P để đảm bảo cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết.

Việc ông T cho rằng ông H và K có nợ của vợ chồng ông T số tiền 10 tỷ đồng nên ông H và K đồng ý cho vợ chồng ông T quản lý, sử dụng ngôi nhà, Hội đồng xét xử xét thấy: Việc ông H và K nợ tiền của vợ chồng ông T, nếu vợ chồng ông T có yêu cầu thì khởi kiện đối với vợ chồng ông H bằng một vụ án khác. Còn ngôi nhà K54/30 Lê Hữu Trác, phường An Hải Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng hiện nay là tài sản đã thế chấp cho Ngân hàng TMCP P, nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng đã ký kết thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

[6] Về án phí: Vì chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nên bị đơn là Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về chi phí tố tụng: Quá trình thực hiện các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật, bên nguyên đơn là Ngân hàng TMCP P đã nộp tiền đăng báo nhắn tin, đăng tin trên Đài truyền hình là 8.000.000 đồng; tiền tạm ứng cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ là 3.000.000 đồng. Nguyên đơn tự nguyện chịu các khoản chi phí tố tụng nêu trên. Đây là sự tự nguyện thực hiện quyền dân sự theo ý chí của đương sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Căn cứ các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng; các Điều: 280, 463,466 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 (V/v quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án).

Tuyên xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” của nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần (TMCP) P đối với bị đơn là Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K.

- Buộc Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP P tổng số tiền nợ tính đến ngày 06/9/2023 là: 9.274.576.619 đồng, trong đó nợ gốc: 7.938.749.797 đồng, nợ lãi là 1.335.826.822 đồng. Ngoài ra Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP P số tiền lãi phát sinh theo lãi suất được quy định tại Hợp đồng tín dụng số ST0517/2020/PNU/HĐTD ngày 13/11/2020; Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số ST0517/2020/PNU/HĐTD-SĐBS-01 ngày 17/11/2020 kể từ ngày 07/9/2023 cho đến khi thanh toán đầy đủ các khoản nợ theo các Hợp đồng nêu trên.

- Trường hợp Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi, thì tài sản thế chấp là nhà và đất tại Thửa đất số 156, tờ bản đồ số 15, K54/30 Lê Hữu Trác, phường An Hải Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 024951, Số vào sổ cấp GCN: CTs 22448, do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 14/08/2013 được xử lý theo Điều 303 của Bộ luật dân sự.

- Buộc bà Nguyễn Thị Thúy K phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP P tổng số tiền nợ tính đến ngày 06/9/2023 là: 313.661.965 đồng, trong đó nợ gốc: 150.000.000 đồng; nợ lãi tạm tính đến ngày 06/9/2023 là 163.661.965 đồng. Đồng thời bà K phải tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh kể từ ngày 07/9/2023 cho đến khi thanh toán đầy đủ các khoản nợ theo Hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng số 0015 ngày 13/01/2021.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Mai H và bà Nguyễn Thị Thúy K phải chịu 117.274.576 đồng (Một trăm mười bảy triệu, hai trăm bảy mươi bốn ngàn, năm trăm bảy mươi sáu đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Bà Nguyễn Thị Thúy K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 15.683.100 đồng (Mười lăm triệu, sáu trăm tám mươi ba ngàn, một trăm đồng).

Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP P số tiền tạm ứng án phí đã nộp 58.273.500 đồng theo biên lai thu số 0008760 ngày 10/02/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

3. Về chi phí tố tụng: Ngân hàng TMCP P tự nguyện chịu số tiền đăng báo nhắn tin, đăng tin trên Đài phát thanh truyền hình; 8.000.000 đồng; tiền chi phí việc xem xét, thẩm định tại chỗ: 3.000.000 đồng (đã nộp và đã chi đủ).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (06/9/2023). Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 60/2023/DS-ST

Số hiệu:60/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về