TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 46/2024/DS-PT NGÀY 24/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 24 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 130/2023/TLPT-DS ngày 12 tháng 12 năm 2023 về “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 24/2023/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 13/2024/QĐXXPT-DS ngày 11 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng N (A).
Địa chỉ: Số B L, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: ông Phạm Toàn V, chức vụ: Tổng Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Trần Xuân H, chức vụ: Giám đốc Ngân hàng N - Chi nhánh huyện N, tỉnh Quảng Nam; địa chỉ: Số B N, thị trấn N, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
2. Bị đơn: ông Phan Bá T, sinh năm 1975.
Địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Phạm Thị T1, sinh năm 1977.
Địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
4. Người kháng cáo: bị đơn ông Phan Bá T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn Ngân hàng N (A) và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 22/9/2016, giữa Ngân hàng A và ông Phan Bá T ký kết hợp đồng tín dụng số 4208-LAV-201601882/HĐTD; theo thỏa thuận của các bên thì Ngân hàng A cho ông Phan Bá T vay với số tiền là 17.098.000.000 đồng nhằm mục đích là đóng mới tàu cá và mua sắm trang thiết bị phục vụ cho việc khai thác xa bờ theo quy định của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP; thời hạn vay là 15 năm 06 tháng; thời hạn trả nợ là 14 năm 06 tháng, theo phân kỳ hạn trả nợ hằng năm. Thực hiện hợp đồng vay, Ngân hàng A đã giải ngân cho ông Phan Bá T số tiền là 17.073.265.972 đồng. Đồng thời, ông Phan Bá T cùng với vợ là bà Phạm Thị T1 đã dùng tài sản là tàu cá số hiệu QNa-91697-TS và toàn bộ ngư lưới cụ phục vụ việc đánh bắt cá để thế chấp đảm bảo khoản vay theo Hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai số 18/9/2016/TC/HTTL ngày 22/9/2016 và Phụ lục hợp đồng thế chấp tài sản số 01/02/2017/TC/HTTL ngày 13/02/2017. Trong quá trình thực hiện hợp đồng vay thì ông Phan Bá T chỉ trả được một kỳ đầu tiên với số tiền là 799.000.000 đồng và tiền lãi là 628.694.339 đồng; ngoài ra, ông T không trả nợ đúng theo thỏa thuận giữa các bên. Tính đến ngày 29/8/2023, ông Phan Bá T nợ gốc quá hạn là 16.274.265.972 đồng; nợ lãi 3.198.155.578 đồng. Do vậy, Ngân hàng A khởi kiện đến Tòa án yêu cầu ông Phan Bá T và bà Phạm Thị T1 phải trả toàn bộ tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (29/8/2023) với số tiền là 19.472.421.550 đồng. Trường hợp ông Phan Bá T và bà Phạm Thị T1 không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì Tòa án cho phát mãi tài sản thế chấp mà ông T, bà T1 đã thế chấp để thu hồi nợ.
Tại bản tự khai, các lời khai có trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Phan Bá T trình bày:
Vào ngày 22/9/2016, ông có vay của Ngân hàng N số tiền là 17.073.265.972 đồng nhằm mục đích đóng mới tàu đi biển theo Nghị định của Chính phủ. Việc đóng tàu đã hoàn thành và vợ chồng ông đã dùng tàu cá số đăng ký QNa-91697-TS cùng toàn bộ ngư lưới cụ để thế chấp đảm bảo khoản vay này của Ngân hàng A. Theo hợp đồng vay thì ông có nghĩa vụ trả nợ trong 15 kỳ với thời hạn 14 năm 06 tháng thì hết nợ. Từ khi vay đến nay, ông T trả nợ gốc là 799.000.000 đồng, sau đó thì không trả gốc và lãi đúng theo thỏa thuận, do gặp khó khăn trong việc khai thác thủy hải sản. Theo bản thân ông thì hiện nay với điều kiện khó khăn trong khai thác hải sản và kinh tế gia đình thì chỉ có khả năng trả nợ mỗi năm là 400.000.000 đồng, chứ không thể trả nợ toàn bộ theo như yêu cầu của Ngân hàng A.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị T1 thống nhất theo lời trình bày của ông Phan Bá T.
Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2023/DS- ST ngày 29/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam đã căn cứ các Điều 26, 35, 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 317, 319, 323, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91, Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 27, Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N (A) đối với bị đơn ông Phan Bá T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị T1 về thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay.
Buộc ông Phan Bá T và bà Phạm Thị T1 phải có nghĩa vụ trả nợ vay cho Ngân hàng N (A) số tiền tính đến ngày 29/8/2023 là 19.472.421.550 đồng. Trong đó, nợ gốc là 16.274.265.972; nợ lãi 3.198.155.578 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 29/8/2023) cho đến khi thi hành án xong, ông Phan Bá T và bà Phạm Thị T1 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất của các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 4208-LAV-201602882/HĐTD ngày 22/9/2016.
Trường hợp ông Phan Bá T và bà Phạm Thị T1 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ thì Ngân hàng N (A) được quyền phát mãi toàn bộ tài sản là tàu cá số đăng ký QNa-91697-TS và ngư lưới cụ phục vụ việc đánh bắt thủy hải sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai số 18/09/2016/TC/HTTL ngày 22/9/2016 và Phụ lục hợp đồng thế chấp tài sản số 01/02/2017/TC/HTTL ngày 13/02/2017 đã được ký kết giữa Ngân hàng N (A) và ông Phan Bá T, bà Phạm Thị T1.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/9/2023 bị đơn ông Phan Bá T có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán được phân công trực tiếp giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc thụ lý vụ án, về thời hạn giải quyết vụ án, về việc chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu để tham gia xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
- Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; người kháng cáo thay đổi nội dung kháng cáo, đề nghị mỗi năm bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc và lãi từ 400.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn ông Phan Bá T thì thấy:
[2.1] Theo sự thừa nhận của các đương sự, thể hiện: ngày 22/9/2016, giữa Ngân hàng N và vợ chồng ông Phan Bá T có ký kết Hợp đồng tín dụng số 4208- LAV-201601882/HĐTD; theo thỏa thuận của các bên thì Ngân hàng N cho vợ chồng ông Phan Bá T vay số tiền là 17.098.000.000 đồng, nhằm mục đích đóng mới tàu cá và mua sắm trang thiết bị phục vụ cho việc khai thác hải sản xa bờ theo quy định của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP; thời hạn vay là 15 năm 06 tháng; thời hạn trả nợ là 14 năm 06 tháng, theo phân kỳ trả nợ hằng năm. Thực hiện hợp đồng vay, Ngân hàng N đã giải ngân cho vợ chồng ông Phan Bá T số tiền là 17.073.265.972 đồng. Vợ chồng ông Phan Bá T chỉ trả được một kỳ đầu tiên với số tiền là 799.000.000 đồng; ngoài ra, vợ chồng ông T không trả nợ đúng theo thỏa thuận giữa các bên. Tính đến thời điểm ngày 29/8/2023, vợ chồng ông Phan Bá T còn nợ Ngân hàng N số tiền là 19.472.421.550 đồng.
[2.2] Xét thấy, Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng N với vợ chồng ông Phan Bá T được ký kết dựa trên sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên nên được pháp luật công nhận. Do vợ chồng ông Phan Bá T vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên nguyên đơn khởi kiện và được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận, buộc vợ chồng ông Phan Bá T, bà Phạm Thị T1 phải trả toàn bộ tiền nợ gốc, nợ lãi cho Ngân hàng N, với tổng số tiền 19.472.421.550 đồng là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Đối với kháng cáo của bị đơn ông Phan Bá T về việc đề nghị được trả một phần tiền nợ gốc và nợ lãi cho Ngân hàng N mỗi năm với số tiền từ 400.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, nhưng không được nguyên đơn chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm theo như đề nghị của Kiểm sát viên.
[3] Án phí dân sự phúc thẩm: Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo nên bị đơn ông Phan Bá T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
[4] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phan Bá T, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 24/2023/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 38, 39 và 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 91 và Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 27 và Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N (A) đối với bị đơn ông Phan Bá T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị T1 về thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay.
Buộc ông Phan Bá T và bà Phạm Thị T1 phải có nghĩa vụ trả nợ vay cho Ngân hàng N (A) số tiền tính đến ngày 29/8/2023 là 19.472.421.550 (Mười chín tỷ, bốn trăm bảy mươi hai triệu, bốn trăm hai mươi mốt nghìn, năm trăm năm mươi) đồng. Trong đó, nợ gốc là 16.274.265.972 (Mười sáu tỷ, hai trăm bảy mươi bốn triệu, hai trăm sáu mươi lăm nghìn, chín trăm bảy mươi hai) đồng; nợ lãi 3.198.155.578 đồng (Ba tỷ, một trăm chín mươi tám triệu, một trăm năm mươi lăm nghìn, năm trăm bảy mươi tám) đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 29/8/2023) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 4208-LAV-201602882/HĐTD ngày 22/9/2016 giữa Ngân hàng N và vợ chồng ông Phan Bá T.
Án phí dân sự phúc thẩm: bị đơn ông Phan Bá T phải chịu số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000192 ngày 11/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam (do bà Phạm Thị T1 nộp thay).
Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (24/4/2024).
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 46/2024/DS-PT
Số hiệu: | 46/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về