Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 38/2024/KDTM-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 38/2024/KDTM-PT NGÀY 22/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 22 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân TP. H, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 240/2023/TLPT-KDTM ngày 16 tháng 11 năm 2023 về “ Tranh chấp Hợp đồng tín dụng”.

Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 53/2023/KDTM-ST ngày 19/7/2023 của Tòa án nhân dân quận L bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 848/2023/QĐXXPT- KDTM ngày 15 tháng 12 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2024/QĐHPT-PT ngày 03/01/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 45/2024/QĐHPT-PT ngày 22/01/2024 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP T;

Đại diện theo pháp luật: ông Đỗ Minh Ph – Chủ tịch Hội đồng quản trị Địa chỉ: Tòa nhà TP Bank, số 57 Lý Thường Kiệt, phường Trần Hưng Đ, quận H, TP.H.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Đỗ Tuấn Th – Trưởng phòng xử lý nợ miền Bắc – Trung tâm giám sát tín dụng và xử lý nợ khách hành doanh nghiệp – TBank Ủy quyền lại cho: Ông Ngô Văn L

* Bị đơn: Công ty CP Xuất nhập khẩu và Đầu tư thương mại M.

Đại diện theo pháp luật: ông Trần Hoài N – Giám đốc.

Trụ sở: Tầng 30 Tòa nhà Handico, Khu đô thị mới Mễ Trì Hạ, đường Phạm H1, phường Mễ Trì, quận L, TP.H.

Cổ đông sáng lập: Ông Trần Hoài N, sinh năm 1980; địa chỉ: số 226 ngõ chợ Khâm Thiên, phường Trung Phụng, quận Đ, TP.H; ông Lưu Minh K, HKTT: thôn Yên Hậu, xã Hòa Tiến, huyện Y, tỉnh B. Địa chỉ: thôn Tiên Hội, xã Đông Hội, huyện Đ, TP.H; ông Nguyễn Văn H1, địa chỉ: thôn Hoàng Phc, xã Đồng Phc, huyện Y, tỉnh B. Đại diện theo chỉ định: ông Lưu Minh K.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trần Hoài N, sinh năm 1980; (Vắng mặt) ĐKNKTT tại số 226 ngõ chợ Khâm Thiên, phường Trung Phụng, quận Đ, TP.H.

2. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1956.(có mặt)

3. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1959.(có mặt)

Cùng địa chỉ: thôn Điền Xá, xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, TP.H.

Người bảo vệ quyền, lợi ích họpw pháp của ông Đ: Luật sư Đặng Văn M, luật sư Lưu Xuân Hoàn - Công ty luật TNHH D

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Nguyên đơn trình bày: Ngày 07/7/2017, Ngân hàng T và Công ty M ký Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức số: 17/2017/HĐTD/TTKD MDH01 với hạn mức 20.000.000.000 đồng, thời hạn sử dụng: 12 tháng. Ngân hàng đã giải ngân số tiền 2.116.320.000 đồng qua 03 Khế ước cho Công ty M, cụ thể:

- Khế ước số 2892017: Số tiền giải ngân là 498.160.000 đồng, ngày giải ngân là 28/9/2017, ngày đến hạn là 29/01/2018, lãi suất 8,7%/năm.

- Khế ước số 25092017: Số tiền giải ngân là 498.160.000 đồng, ngày giải ngân là 25/9/2018, ngày đến hạn là 25/01/2018, lãi suất 8,7%/năm.

- Khế ước số 5102017: Số tiền giải ngân là 1.120.000.000 đồng, ngày giải ngân là 05/10/2017, ngày đến hạn: 05/02/2018, lãi suất 8,5%/năm.

Tài sản bảo đảm:

- Quyền sử dụng đất thửa đất số 115b1, tờ bản đồ số 08, địa chỉ: thôn Điền Xá, xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, TP.H, diện tích: 40,8m2, mục đích sử dụng: đất ở nông thôn, đất ở lâu dài (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 883465, số vào sổ: CS 35317 do Sở TNMT TP.H cấp ngày 19/9/2017 cho ông Trần Hoài N) theo Hợp đồng thế chấp số 100 2017/HDBD TTKD MDH/01 ngày 28/9/2017.

- 01 xe ô tô Ford Ranger XLS màu trắng sản xuất tháng 12/2016, số khung MNCMFF80HW671750, số máy: P4AT2360561, hóa đơn số 0000031 ngày 21/9/2017 theo Hợp đồng đảm bảo số 91/2017/HDBDTTKD MDH/01 ngày 25/9/2017;

- 01 xe ô tô Ford Ranger XLS màu trắng sản xuất năm 2016, số khung MNCMFF80HW672714, số máy: P4AT2361943, hóa đơn số 0000032 ngày 21/9/2017 theo Hợp đồng đảm bảo số 99/2017/HDBDTTKD MDH/01 ngày 28/9/2017;

Tài sản trên đã được đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật.

Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty M đã thanh toán cho TP Bank số tiền 575.541.808 đồng; Trong đó: 530.000.000 đồng tiền gốc và 45.541.808 đồng tiền lãi. Ngân hàng đã giải chấp 01 xe ô tô Ford Ranger XLS màu trắng sản xuất tháng 12/2016, số khung MNCMFF80HW671750, số máy: P4AT2360561, hóa đơn số 0000031 ngày 21/9/2017. Kể từ ngày 07/9/2018 đến nay, Công ty M đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán với Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết:

- Buộc Công ty M thanh toán cho Tbank tổng số tiền theo 03 khế ước nhận nợ, tính đến ngày 19/7/2023 là 2.826.383.930 đồng, trong đó: nợ gốc:

1.586.320.000 đồng, nợ lãi trong hạn: 17.030.949 đồng, nợ lãi quá hạn: 1.223.032.981 đồng, cụ thể:

+ Khế ước số 2892017: Đã trả hết nợ gốc; nợ lãi trong hạn: 4.226.057 đồng, nợ lãi quá hạn: 44.470.807 đồng. Tổng nợ: 48.696.864 đồng;

+ Khế ước số 25092017: Nợ gốc: 498.160.000 đồng; nợ lãi trong hạn: 1.673.336 đồng, nợ lãi quá hạn: 374.702.401 đồng. Tổng nợ: 874.535.737 đồng.

+ Khế ước số 5102017: Nợ gốc 1.088.160 đồng; nợ lãi trong hạn: 11.131.556 đồng, lãi quá hạn: 803.859.773 đồng. Tổng nợ: 1.903.151.329 đồng.

Kể từ khi Bản án có hiệu lực pháp luật Công ty M không trả được nợ và lãi phát sinh thì Tbank có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên, phát mại 02 tài sản bảo đảm nêu trên để thu hồi nợ.

Tại phiên tòa, đại diện ngân hàng rút yêu cầu phát mại tài sản đối với xe ô tô 01 xe ô tô Ford Ranger XLS màu trắng sản xuất năm 2016, số khung MNCMFF80HW672714, số máy: P4AT2361943, hóa đơn số 0000032 ngày 21/9/2017.

Toàn bộ số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản bảo đảm được dùng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ của Công ty M đối với Tbank. Nếu số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán hết khoản nợ thì Công ty M vẫn phải có nghĩa vụ trả hết khoản nợ cho Tbank bằng các nguồn tài sản/nguồn thu khác của Công ty M.

Bị đơn là Công ty M và các cổ đông sáng lập của Công ty M không đến Tòa án làm việc theo các thông báo, giấy báo, không có lời khai tại Tòa án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trần Hoài N là người có tài sản thế chấp không đến Tòa án làm việc theo các thông báo, giấy báo, không có lời khai tại Tòa án.

2. Ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị S không đến Tòa án làm việc, chỉ có văn bản nêu ý kiến của mình về việc Thẩm phán đã không thực hiện đúng trình tự, thủ tục tổ chức phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và cung cấp một số tài liệu thể hiện việc ông bà không đồng ý phát mại tài sản là quyền sử dụng đất vì ông bà bị lừa ký vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Tại Bản án KDTM sơ thẩm số 53/2023/KDTM-ST ngày 19/7/2023, của Tòa án nhân dân quận L:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP T. Buộc Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và đầu tư thương mại M thanh toán cho Ngân hàng TMCP T tổng số tiền tính đến ngày 19/7/2023 là 2.826.384.739 đồng trong đó: Nợ gốc là 1.586.320.808 đồng, nợ lãi trong hạn 17.030.949 đồng, nợ lãi quá hạn là 1.223.032.981 đồng Buộc Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và đầu tư thương mại M phải có nghĩa vụ thanh toán số nợ lãi tiếp tục phát sinh kể từ ngày 20/7/2023 theo mức lãi suất nợ quá hạn được quy định tại Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức số 17/2017/HDTD/TTKD MDH/01 và các Khế ước nhận nợ được ký kết và thỏa thuận chung về cung cấp và sử dụng tín dụng tại TPbank ký ngày 07/7/2017 với TPbank cho đến khi thanh toán hết nợ vay cho TPbank.

Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và đầu tư thương mại M không thi hành khoản tiền nêu trên thì phát mại tài sản bảo đảm là Quyền sử dụng đất thửa đất số 115b1, tờ bản đồ số 08, địa chỉ: thôn Điền Xá, xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, TP.H, diện tích: 40,8m2, mục đích sử dụng: đất ở nông thôn, đất ở lâu dài (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 883465, số vào sổ: CS 35317 do Sở TNMT TP.H cấp ngày 19/9/2017 cho ông Trần Hoài N) theo Hợp đồng thế chấp số 100 2017/HDBD TTKD MDH/01 ngày 28/9/2017 trong trường hợp bị đơn không thanh toán đầy đủ các khoản nợ trên.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và thi hành án.

* Ngày 25/7/2023, ông Nguyễn Văn Đ kháng cáo toàn bộ Bản án số 53/2023/KDTM-ST ngày 19/7/2023, của Tòa án nhân dân quận L.

Tại phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hủy bản án sơ thẩm Đại diện viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, đã đảm bảo các quy định tại Điều 48, 285, 286; 290 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Tòa án nhân dân thành phố H thụ lý giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm là trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được quy định tại khoản 1 Điều 286 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Việc gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại Điều 292 BLTTDS năm 2015.

Việc chấp hành pháp luật tố tụng của HĐXX, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo các quy định tại Điều 293, 297, 298, 301, 303, 305, 306 BLTTDS năm 2015

2. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng Các đương sự đã được thực hiện đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS năm 2015.

Đơn kháng cáo trong thời hạn quy định tại Điều 273 BLTTDS năm 2015. Do vậy, xác định đơn kháng cáo là hợp lệ.

TAND TP H đã thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật.

Quan điểm giải quyết vụ kiện của đại diện viện kiểm sát Căn cứ khoản 2 Điều 308 BLTTDS, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân thành phố H xử:

- Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn Đ - Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Ông Đ phải chịu án phí KDTM phúc thẩm

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Đơn kháng cáo: Ông Nguyễn Văn Đ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có đơn kháng cáo ngày 25/7/2023 nên được coi là kháng cáo hợp lệ.

[2]. Thẩm quyền: Tòa án nhân dân quận L xác định tranh chấp Hợp đồng tín dụng và giải quyết đúng thẩm quyền.

Về nội dung:

[3]. Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức số 17/2017/HDTD/TTKD MDH/01ngày 17/7/2017 và 03 Khế ước nhận nợ với tổng số tiền là 2.116.320.000 đồng, thời hạn sử dụng là 12 tháng. Quá trình thực hiện hợp đồng, Ngân hàng T đã nhiều lần điều chỉnh mức lãi suất trong hạn từ 8,5%/năm lên đến 8,8%/năm đối với Khế ước nhận nợ số 5102017; và từ 8,7%/năm lên 9%/năm đối với Khế ước số 25092017 và số 28092017.

Xét Hợp đồng tín dụng, 03 khế ước nhận nợ, mức lãi suất giữa các bên được xác lập trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, các chủ thể tham gia có năng lực hành vi dân sự và người có thẩm quyền ký kết, nội dung và hình thức phù hợp với các quy định của Luật các tổ chức tín dụng nên hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm ký kết nên các bên phải thực hiện quyền, nghĩa vụ với nhau theo đúng cam kết, khế ước nhận nợ.

Quá trình thực hiện hợp đồng Công ty M đã trả nợ cho Ngân hàng tổng số tiền là 575.541.808 đồng, trong đó; trả nợ gốc là 530.000.000 đồng; trả lãi 45.541.808 đồng.

Bản án sơ thẩm buộc Công ty M phải trả nợ cho Ngân hàng: nợ gốc:

1.586.320.808 đồng, nợ lãi trong hạn: 17.030.949 đồng, nợ lãi quá hạn: 1.223.032.981 đồng. Các đương sự không có kháng cáo về nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền này nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm giữ nguyên nội dung này của bán án sơ thẩm.

Việc áp dụng tính mức lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn được áp dụng phù hợp với thỏa thuận của các bên và quy định của pháp luật nên có căn cứ để chấp nhận.

[4]. Xét các Hợp đồng thế chấp:

- Hợp đồng thế chấp số 100 2017/HDBD TTKD MDH/01 ngày 28/9/2017. Thế chấp 01 bất động sản là quyền sử dụng đất thửa đất số 115b1, tờ bản đồ số 08, địa chỉ: thôn Điền Xá, xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, TP.H, diện tích 40,8m2, mục đích sử dụng: đất ở nông thôn, đất ở lâu dài (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 883465, số vào sổ: CS 35317 do Sở TNMT TP.H cấp ngày 19/9/2017 cho ông Trần Hoài N, làm tài sản bảo đảm cho khoản vay tại Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức số 17/2017/HDTD/TTKD MDH/01ngày 17/7/2017 và 03 Khế ước nhận nợ đã ký kết và cùng thỏa thuận về cung cấp và sử dụng tín dụng tại ngân hàng, thể hiện tại Hợp đồng thế chấp ngày 28/9/2017, đã đăng ký giao dịch bảo đảm thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Ngân hàng TMCP T, đã được Văn phòng đăng ký đất đai H xác nhận vào ngày 29/9/2017, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

- Hợp đồng đảm bảo số 99/2017/HDBDTTKD MDH/01 ngày 28/9/2017 là 01 xe ô tô Ford Ranger XLS màu trắng sản xuất năm 2016, số khung MNCMFF80HW672714, số máy: P4AT2361943, hóa đơn số 0000032 ngày 21/9/2017. Ngân hàng đã rút yêu cầu phát mại tài sản với chiếc xe ô tô trên thể hiện sự tự nguyện, phù hợp với pháp luật cần chấp nhận đề nghị của Ngân hàng rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với tài sản tài sản bảo đảm là 01 xe ô tô Ford Ranger XLS màu trắng sản xuất năm 2016, số khung MNCMFF80HW672714, số máy: P4AT2361943, hóa đơn số 0000032 ngày 21/9/2017. Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện này là đúng pháp luật.

[5]. Xét nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Văn Đ:

Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại bản án dân sự số 19 ngày 26/05/2021 thể hiện: ông Nguyễn Văn Đ là chủ quản lý tài sản nhà đất ở theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Văn Đ do UBND huyện Sóc Sơn cấp ngày 29/5/2013, đã ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 664/2016/HĐCN ngày 28/10/2016 do trưởng phòng công chứng Phạm Trung Trực thực hiện. Việc này ông Nguyễn Văn Đ đã xác nhận đã cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chứng minh thư, hộ khẩu, giấy chứng nhận kết hôn của vợ chồng ông Đ. Sau đó Văn phòng công chứng Phạm Trung Trực đã thực hiện, kiểm tra trên hệ thống Uchi và thông tin đầy đủ, chính xác, vì ông Đ không trực tiếp đến trụ sở văn phòng công chứng nên công chứng viên đã hẹn thời gian ký kết tại gia đình ông Đ. Việc công chứng đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, tiếp theo đã được UBND huyện Sóc Sơn, sang tên ông Nguyễn H1 Trường vào ngày 08/11/2016.

Ngày 19/9/2017 đã được Sở tài nguyên môi trường thành phố H cấp giấy chứng nhận cho ông Trần Hoài N và đã được ông Trần Hoài N thực hiện việc giao dịch đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Ngân hàng TMCP T – Chi nhánh Thăng Long, đã được xác nhận của Văn phòng đăng ký đất đai H. Trong trường hợp Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và đầu tư thương mại M không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng phát mại các tài sản thế chấp này là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Thực tế Công ty và người đại diện theo pháp luật của Công ty và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Trần Hoài N và các cổ đông sáng lập công ty nhận được bản án không có ý kiến gì đối với Bản án của Tòa cấp sơ thẩm.

Hội đồng xét xử nhận định qua các tài liệu xác minh, lời khai của các bên đương sự, chứng cứ do các bên cung cấp đã thể hiện rõ tại thời điểm ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vào ngày 28/10/2016 giữa ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn H1 Trường đủ minh mẫn, không bị ai ép buộc, tự nguyện, trình tự, thủ tục, nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Việc đăng ký sang tên cho ông Trần Hoài N đã được sở tài nguyên môi trường thành phố H cấp giấy chứng nhận ngày 19/9/2017 và đăng ký giao dịch bảo đảm thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Ngân hàng TMCP T, đã được Văn phòng đăng ký đất đai H xác nhận vào ngày 29/9/2017, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử nhận thấy tài sản trên đã không thuộc quyền định đoạt của vợ chồng ông Đ, mà được xác lập cho ông Trần Hoài N từ năm 2017, ông Trần Hoài N đã thực hiện việc thế chấp cho Ngân hàng.

Ông Đ, bà S cho rằng đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 664/2016/HĐCN ngày 28/10/2016 giữa ông Đ, bà S và ông Trần Hoài N. Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ. Sau đó ông Đ kháng cáo quá hạn nên cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo quá hạn tại Quyết định số 365/2021/QĐ-PT ngày 21/10/QĐ-PT ngày 21/10/2021 không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn.

Việc ông Nguyễn Minh Đ không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng với lý do đợi kết quả giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định không chấp nhận kháng cáo quá hạn số 365/2021/QĐ-PT ngày 21/10/2021 của TAND TP.H. Hội đồng xét xử nhận thấy việc ông Đ khiếu nại Quyết định không chấp nhận kháng cáo quá hạn, không ảnh hưởng tới nghĩa vụ bảo đảm trong hợp đồng thế chấp tài sản công chứng số 100/2017/HDBD TTKD MDH/01 ngày 28/9/2017 tại Phòng Công chứng P, TP.H. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử lý tài sản bảo đảm là đúng quy định của pháp luật. Yêu cầu kháng cáo của ông Đ là không có căn cứ để chấp nhận.

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Bác kháng cáo của ông Nguyễn Văn Đ. Giữ nguyên Quyết định của Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 53/2023/KDTM-ST ngày 19 tháng 7 năm 2023 của Toà án nhân dân quận L.

2. Đình chỉ yêu cầu phát mại tài sản đối với hợp đồng thế chấp số 100 2017/HDBD TTKD MDH/01 ngày 28/9/2017, là 01 xe ô tô Ford Ranger XLS màu trắng sản xuất năm 2016, số khung MNCMFF80HW 672714, số máy: P4AT2361943, hóa đơn số 0000032 ngày 21/9/2017.

3. Về án phí sơ thẩm: Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và đầu tư thương mại M phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm với số tiền là 88.527.000 đồng.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần T tiền tạm ứng án phí đã nộp là 39.082.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0033586 ngày 14/5/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận L, TP H.

4. Án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn Đ là người cao tuổi có đơn đề nghị được miễm án phí nên miễn án phí phúc thẩm cho ông Nguyễn Văn Đ.

Các phần khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Ngày 22/02/2024)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 38/2024/KDTM-PT

Số hiệu:38/2024/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 22/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về