Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 31/2024/KDTM-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 31/2024/KDTM-PT NGÀY 31/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 31 tháng 01 và ngày 01 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân TP. H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 327/TLPT-KDTM ngày 16 tháng 11 năm 2023 về “ Tranh chấp Hợp đồng tín dụng”.

Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 20/2023/KDTM-ST ngày 11/8/2023 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố H bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 845/QĐXXPT- KDTM ngày 13 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S Địa chỉ: Số 2C Phó Đức Chính, quận 1, Thành phố H.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Quang L - Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hoàng L1, ông Nguyễn Mạnh H, ông Nguyễn Tr K – cán bộ Ngân hàng TMCP S. (Có mặt)

Bị đơn: Hộ kinh doanh bà Phạm Thị L, sinh năm 1961 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 17 ngõ 266 Thụy Phương, tổ dân phố Hồng Ngự, phường Thụy Phương, quận B, TP H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Phạm Thị L, sinh năm 1961(Vắng mặt)

2. Ông Hoàng Đình Tr, sinh năm 1963 ( có mặt) Địa chỉ: Số 17 ngõ 266 Thụy Phương, TDP Hồng Ngự, phường Thụy Phương, quận B, TP H.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Tr, bà L là ông Nguyễn Văn B – Luật sư, văn phòng luật sư Nguyễn Văn B và công sự thuộc đoàn luật sư thành phố H.(Có mặt) 3. Ông Nguyễn Hồng G, sinh năm 1964 (Vắng mặt)

4. Bà Phan Thị Q, sinh năm 1964 (Vắng mặt)

5. Anh Nguyễn Tuấn M, sinh năm 1989 (Vắng mặt)

6. Chị Nguyễn Thị Ngân H, sinh năm 1995 (Vắng mặt) Đều trú tại: Số 17 hẻm 477/15/29 Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận B, TP H.

Người đại diện theo ủy quyền của ông G, bà Q, anh M, chị H là bà Vũ Thị Kim Ch, sinh năm 1972 và ông Vũ Mạnh H, sinh năm 1964; (Vắng mặt)

Trú tại: Số 52, ngõ 603 Lạc Long Quân, phường Xuân La, quận Tây Hồ, TP H.

7. Văn phòng Công chứng Hai Bà Tr Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Hồng H –Trưởng văn phòng (Vắng mặt) Địa chỉ: số 36, ngõ 61 Lạc Tr, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Tr, TP H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP S có quan điểm:

Ngân hàng TMCP S và ông Hoàng Đình Tr; bà Phạm Thị L đã ký kết các Hợp đồng tín dụng sau:

- Hợp đồng tín dụng số 182/2016/HĐTDTL-CN ngày 27/9/2016 : SBank cho ông Tr, bà L vay số tiền 1.300.000.000 đồng, thời hạn vay 09 tháng - Hợp đồng tín dụng số 189/2016/HĐTDTL-CN ngày 29/9/2016 : SBank cho ông Tr, bà L vay số tiền 1.350.000.000 đồng, thời hạn vay 09 tháng.

Mục đích ông Tr, bà L vay tiền để kinh doanh đồ gỗ cao cấp.

Lãi suất cho vay là 12%/năm, được điều chỉnh theo thông báo của SBank.

Lãi suất quá hạn bằng 150% của lãi suất trong hạn. Tiền lãi được trả vào ngày 20 - 25 hàng tháng.

Tiền nợ gốc được thanh toán vào cuối kỳ.

Ngày 27/9/2016 và ngày 29/9/2016, SBank đã giải ngân toàn bộ số tiền trên bằng hình thức giao nhận tiền mặt cho ông Tr, bà L.

Tài sản thế chấp để bảo đảm cho hai khoản vay trên là: Toàn bộ quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 100, tờ bản đồ số 7G- III-02, số 19 hẻm 477/15/29 Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận B, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10101170626 do UBND thành phố H cấp ngày 28/01/2003, được sang tên cho ông Hoàng Đình Tr, bà Phạm Thị L ngày 24/10/2015. Hợp đồng thế chấp số công chứng 774015 ký ngày 29/10/2015 tại Phòng Công chứng số 1 thành phố H.

Trong 03 kỳ thanh toán lãi đầu tiên, ông Tr, bà L trả lãi đầy đủ. Trong kỳ trả lãi của tháng 12/2016, ông Tr, bà L thanh toán một phần tiền lãi. Từ ngày 26/01/2017 đến nay, ông Tr, bà L không thanh toán lãi vay và trả nợ gốc khi đến hạn theo quy định. Do chưa thực hiện hợp đồng tín dụng được 03 tháng mà bên vay đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên SBank và VAMC không ra thông báo thay đổi lãi suất cho vay với các hợp đồng tín dụng trên.

Ngày 12/12/2018, SBank và VAMC đã thỏa thuận ký kết Hợp đồng mua bán nợ số 5643/2018/SAIGONBANKN.VAMC-SBank, theo đó SBank đã bán khoản nợ của ông Tr, bà L theo các Hợp đồng tín dụng nêu trên cho VAMC. Nay VAMC khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Buộc bà Phạm Thị L và ông Hoàng Đình Tr phải trả ngay cho VAMC số tiền tạm tính đến hết ngày 11/7/2023 như sau: Theo Hợp đồng tín dụng số 182/2016/HĐTDTL-CN ngày 27/9/2016, số tiền nợ là : 2.811.637.569 đồng, trong đó nợ gốc là 1.300.000.000 đồng, lãi trong hạn 74.654.827 đồng, lãi quá hạn 1.433.250.000 đồng, phạt chậm trả lãi 3.732.742 đồng và tiếp tục trả các khoản lãi, phạt chậm trả, chi phí phát sinh khác kể từ ngày 12/07/2023 cho đến khi trả hết nợ. Theo Hợp đồng tín dụng số 189/2016/HĐTDTL-CN ngày 29/9/2016, số tiền nợ là : 2.919.750.300 đồng, trong đó nợ gốc là 1.350.000.000đồng, lãi trong hạn 78.786.000 đồng, lãi quá hạn 1.487.025.000 đồng, phạt chậm trả lãi 3.939.300 đồng và tiếp tục trả các khoản lãi, phạt chậm trả, chi phí phát sinh khác kể từ ngày 12/07/2023 cho đến khi trả hết nợ.

- Trường hợp ông Tr, bà L không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đầy đủ cho VAMC thì VAMC có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mại tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp tài sản ký ngày 29/10/2015 nêu trên giữa SBank và ông Tr, bà L.

- Trường hợp sau khi bán tài sản đảm bảo mà không đủ thanh toán số tiền vốn gốc nợ vay, tiền lãi vay, lãi phạt và các chi phí phát sinh khác thì ông bà có trách nhiệm tiếp tục thanh toán số tiền còn thiếu cho VAMC.

Đối với yêu cầu độc lập của ông G, bà Q, VAMC có ý kiến: SBank chỉ biết và giao dịch với ông Tr, bà L là bên vay và thế chấp tài sản nên yêu cầu độc lập của ông G, bà Q là không có cơ sở. Quan hệ chuyển nhượng giữa ông G, bà Q và ông Tr, bà L diễn ra trước khi có quan hệ tín dụng, được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền, không liên quan đến SBank và đề nghị Tòa án tách riêng, giải quyết trong vụ án khác. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

* Bị đơn ông Hoàng Đình Tr, bà Phạm Thị L trình bày: Ông Tr, bà L đứng tên vay tiền hộ anh Nguyễn Công Định (Địa chỉ: tòa nhà CT3, Nguyễn Cơ Thạch). Ông Tr là lái xe taxi nên hay nhận chở dì của anh Định. Anh Định nhờ ông Tr đứng tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do hoàn cảnh gia đình và nhờ ông Tr đứng tên vay vốn để anh Định kinh doanh hàng gỗ ốp giả đá, anh Định tự làm hồ sơ và cam kết tự trả tiền ngân hàng. Anh Định nói là có tài sản thế chấp rồi.

Nay Ngân hàng khởi kiện, ông Tr sẽ cố gắng tìm anh Định để anh Định lo tiền trả cho Ngân hàng. Bản thân ông Tr, bà L và gia đình không còn tài sản gì có giá trị vì nhà đất của ông bà, anh Định cũng mang đi thế chấp Ngân hàng Nông nghiệp để vay 1,5 tỷ đồng, trong khi ông bà chỉ vay của anh Định 500 triệu đồng. Ông bà không biết vì sao lại đứng tên trong giấy tờ nhà đất của ông G, bà Q. Ông bà không biết và chưa bao giờ gặp ông G, bà Q đến khi Tòa án yêu cầu ông bà đến nhà họ xem xét tại chỗ tài sản thế chấp. Ông bà cũng không ký kết hợp đồng thế chấp đất nhà của ông G, bà Q để vay ngân hàng, chỉ ký hợp đồng vay tiền của ngân hàng.

Ông Tr, bà L chỉ ký nhận số tiền 1,3 tỷ đồng với SBank, còn số tiền 1,35 tỷ đồng ông bà không ký nhận. Ông Tr, bà L đề nghị Tòa án tuyên khoản vay 1,3 tỷ đồng là khoản vay không có tài sản đảm bảo và không chấp nhận yêu cầu đòi 1,35 tỷ đồng nợ gốc và lãi của VAMC.

Việc định giá, thẩm định tài sản thế chấp của SBank là không đúng pháp luật, quy định của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng không thẩm định thực tế, ông Tr, bà L chưa bao giờ đi cùng ngân hàng để xem xét, thẩm định, định giá tài sản thế chấp. Nếu thẩm định đúng quy trình, ngân hàng sẽ biết được tài sản thế chấp không phải là của ông bà. Ông Tr, bà L đề nghị Tòa án hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được ký kết giữa ông bà và ngân hàng.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông G, bà Q, anh M, chị H trình bày: Nhà đất tại số 17, hẻm 477/15/29 Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận B, thành phố H là tài sản chung của ông G, bà Q. Ông bà đã thế chấp nhà đất này để vay của Công ty Cổ phần Farcos 700.000.000 đồng. Mọi giao dịch nhà đất của ông bà là do chị Đỗ Thị Trang, đại diện cho Công ty thực hiện. Ông bà không nhớ địa chỉ cụ thể của Công ty, chỉ nhớ tòa nhà của Công ty CP Farcos ở phố Hoàng Cầu, còn chị Trang là chỗ quen biết của bà Q. Chị Trang có địa chỉ thường trú tại số 01, lô 17 Trại Găng, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Tr và ở tại số 45, ngách 74/12 ngõ Thịnh Hòa 1, phường Hng Bột, quận Đống Đa, thành phố H. Khi ông bà ký biên bản cam kết thế chấp, nội dung cam kết là ông bà thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất chỉ để vay 700 triệu đồng và Hợp đồng công chứng số 1791.2015/CCHBT-HĐCN không mang tính chất mua bán, chuyển nhượng thật mà chỉ là phương án hợp thức hóa vay vốn Ngân hàng. Sau khi vay, ông bà vẫn trả đủ lãi, gốc hàng tháng cho họ.

Đến tháng 7/2017, ông bà không trả tiền vay nữa do biết nhà đất của mình đã bị sang tên cho ông Tr, bà L.

Việc ông G, bà Q ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà thì anh M, chị H không biết nên anh chị đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ngân hàng là phát mại tài sản là nhà đất của ông G, bà Q.

Ngân hàng yêu cầu phát mại tài sản là quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 100, tờ bản đồ số 7G-III-02, số 19, hêm 477/15/29 Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận B, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10101170626 do UBND thành phố H cấp ngày 28/01/2003 cho ông G bà Q, gia đình ông G, bà Q không đồng ý và đề nghị ngân hàng đòi tiền vợ chồng ông Tr. Ông G, bà Q chỉ trả tiền cho người ông bà đã vay tiền. Ông G, bà Q cũng không biết ông Tr, bà L đến trước khi được Tòa án mời đến làm việc.

Ông G, bà Q có yêu cầu độc lập, đề nghị Tòa án tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 1791.2015/CCHBT-HĐCN quyền số 04TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 15/10/2015 tại Văn phòng công chứng Hai Bà Tr là vô hiệu và xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu, cần khôi phục lại tình trạng ban đầu hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận theo quy định tại Điều 137 của Bộ luật dân sự năm 2005.

n phòng Công chứng Hai Bà Tr trình bày: Việc thực hiện công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 1791.2015/CCHBT-HĐCN quyền số 04TP/CC-SCC/HĐGD ngày 15/10/2015 của Văn phòng công chứng Hai Bà Tr tuân thủ đúng các quy định của pháp luật có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng bất động sản.

Ngày 15/10/2015, ông Nguyễn Hồng G đến Văn phòng công chứng Hai Bà Tr yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đối với quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 100, tờ bản đồ số 7G-III-02, số 19 hẻm 477/15/29 Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận B, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10101170626 do UBND thành phố H cấp ngày 28/01/2003 đứng tên ông Nguyễn Hồng G và bà Phan Thị Q với giá chuyển nhượng là 700.000.000 đồng thể hiện tại phiếu yêu cầu công chứng hợp đồng - giao dịch do ông G ký ngày 15/10/2015. Công chứng viên đã yêu cầu ông G, bà Q, ông Tr, bà L cung cấp đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, kiểm tra tính pháp lý của các giấy tờ và tư vấn đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết. Công chứng viên đã soạn thảo hợp đồng, các bên đã đọc lại và ký vào từng trang của hợp đồng. Sau khi ký kết, mỗi bên được nhận một bản của hợp đồng chuyển nhượng. Văn phòng công chứng Hai Bà Tr khẳng định việc thực hiện chứng thực Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 1791.2015/CCHBT-HĐCN nêu trên đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và không đồng ý với việc tuyên hủy Hợp đồng trên.

Quá trình thực hiện việc xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp, nhận thấy gia đình ông Nguyễn Hồng G và bà Phan Thị Q đang sinh sống tại địa chỉ tài sản thế chấp.

Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 20/2023/KTTM-ST ngày 11/8/2023 của TAND quận B đã quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của VAMC đối với ông Hoàng Đình Tr, bà Phạm Thị L.

2. Buộc ông Hoàng Đình Tr, bà Phạm Thị L phải trả cho VAMC tổng số tiền nợ gốc và lãi đến ngày xét xử (ngày 11/08/2023) là 5.764.790.827 (Năm tỷ, bảy trăm sáu mươi tư triệu, bảy trăm chín mươi nghìn, tám trăm hai mươi bảy) đồng theo các hợp đồng tín dụng số 182/2016/HĐTDTL-CN ngày 27/9/2016 và số 189/2016/HĐTDTL-CN ngày 29/9/2016 được ký kết giữa hai bên nêu trên, trong đó nợ gốc là: 2.650.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn: 153.440.827 đồng; nợ lãi quá hạn: 2.961.350.000 đồng.

Kể từ ngày 12/8/2023, ông Tr, bà L không trả số tiền nêu trên cho VAMC thì ông bà còn phải chịu lãi suất trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất hai bên thỏa thuận tại các hợp đồng tín dụng giấy nhận nợ đến ngày trả xong nợ gốc.

3. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của VAMC nếu ông Tr, bà L không trả được số tiền nêu trên thì VAMC có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mại tài sản bảo đảm là: Toàn bộ quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 100, tờ bản đồ số 7G-II- 02, số 19 hẻm 477/15/29, Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận B, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10101170626 do UBND thành phố H cấp ngày 28/01/2003 đứng tên ông Tr, bà L theo Hợp đồng thế chấp số công chứng: 774015 ký kết giữa hai bên ngày 29/10/2015 tại Phòng Công chứng số 1 thành phố H.

4. Nếu số tiền thu được từ việc xử lí, bán tài sản đảm bảo nêu trên không đủ để thanh toán khoản nợ, ông Tr, bà L phải có nghĩa vụ trả nốt số tiền còn thiều cho VAMC.

5. Không chấp nhận yêu cầu của VAMC về việc buộc ông Tr, bà L phải trả cho VAMC số tiền phạt chậm trả lãi là 7.672.042 đồng.

6. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông G, bà Q về việc hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 1791.2015/CCHB T-HĐCN quyển số 04TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 15/10/2015 tại Văn phòng công chứng Hai Bà Tr.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 24/8/2023 ông Nguyễn Hồng G có đơn kháng cáo bản án. Đề nghị cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

Ngày 21/8/2023 ông Hoàng Đình Tr có đơn kháng cáo bản án. Đề nghị cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

* Tại phiên toà: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn và là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Đình Tr, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vụ kiện theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, ý kiến của các bên tham gia tố tụng. Sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tố tụng:

- Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.

- Đơn kháng cáo của ông Hoàng Đình Tr và ông Nguyễn Hồng G làm trong hạn luật định và nộp tạm ứng án phí phúc thẩm đúng thời hạn nên được coi là kháng cáo hợp lệ.

- Tại phiên tòa vắng mặt bà Phạm Thị L, ông Nguyễn Hồng G, bà Phan Thị Q, anh Nguyễn Tuấn M, chị Nguyễn Thị Ngân H do bà Vũ Thị Kim Ch, ông Vũ Mạnh H là người đại diện theo ủy quyền. Đây là phiên tòa mở thứ hai các đương sự đã được tống đạt hợp lệ nên việc vắng mặt này Hội đồng vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

Xét nội dung kháng cáo của ông Hoàng Đình Tr

[2]. Xét các Hợp đồng tín dụng:

Ngân hàng TMCP S và ông Hoàng Đình Tr; bà Phạm Thị L đã ký kết các Hợp đồng tín dụng sau:

- Hợp đồng tín dụng số 182/2016/HĐTDTL-CN ngày 27/9/2016 : SBank cho ông Tr, bà L vay số tiền 1.300.000.000 đồng, thời hạn vay 09 tháng - Hợp đồng tín dụng số 189/2016/HĐTDTL-CN ngày 29/9/2016 : SBank cho ông Tr, bà L vay số tiền 1.350.000.000 đồng, thời hạn vay 09 tháng.

Mục đích ông Tr, bà L vay tiền để kinh doanh đồ gỗ cao cấp.

Lãi suất cho vay là 12%/năm, được điều chỉnh theo thông báo của SBank. Lãi suất quá hạn bằng 150% của lãi suất trong hạn. Tiền lãi được trả vào ngày 20 - 25 hàng tháng. Tiền nợ gốc được thanh toán vào cuối kỳ.

Ngày 27/9/2016 và ngày 29/9/2016, SBank đã giải ngân toàn bộ số tiền trên bằng hình thức giao nhận tiền mặt cho ông Tr, bà L.

Tài sản thế chấp để bảo đảm cho hai khoản vay trên là: Toàn bộ quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 100, tờ bản đồ số 7G- III-02, số 19 hẻm 477/15/29 Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận B, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10101170626 do UBND thành phố H cấp ngày 28/01/2003, được sang tên cho ông Hoàng Đình Tr, bà Phạm Thị L ngày 24/10/2015. Hợp đồng thế chấp số công chứng 774015 ký ngày 29/10/2015 tại Phòng Công chứng số 1 thành phố H.

[3] Trên cơ sở các lời khai, các biên bản hòa giải, kết hợp với các tài liệu chứng cứ đã được cung cấp, thu thập có trong hồ sơ vụ kiện, phải khẳng định có việc giao dịch dân sự dẫn đến việc ký kết Hợp đồng tín dụng số 182/2016/HĐTDTL-CN, ngày 27/9/2016 và Hợp đồng tín dụng số 189/2016/HĐTDTL-CN, ngày 29/9/201; Hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng 774015/HĐTC ngày 29/10/2015 tại phòng công chứng số 1, thành phố H giữa bà Phạm Thị L và ông Hoàng Đình Tr với Ngân hàng TMCP S chi nhánh Đống Đa, trên cơ sở tự nguyện của các bên và đã được thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Trong thời gian thực hiện Hợp đồng tín dụng thì bà Phạm Thị L chưa trả được nợ gốc, đã trả được lãi một phần của 02 hợp đồng tín dụng là 4.645.172 đồng và 4.464.000 đồng tiền lãi.

Quá trình giải quyết vụ kiện các bên đương sự đều thừa nhận số nợ gốc chưa trả là 2.650.000.000đồng, và tiền lãi phát sinh chưa thanh toán trả cho Ngân hàng tính đến ngày 11/8/2023 là 153.440.827 đồng lãi trong hạn và số tiền 2.961.350.000 đồng nợ lãi quá hạn. Tổng số tiền phải trả cho Ngân hàng là: 5.764.790.827 đồng.

Các bên đã ký Hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng 774015 /HĐTC ngày 29/10/2015 tại phòng công chứng số 1, Thành phố H giữa bà Phạm Thị lan, ông Hoàng Đình Tr với Ngân hàng TMCP S là thửa đất số thửa đất số 100, tờ bản đồ số 7G-II- 02, số 19 hẻm 477/15/29, Kim Mã, phường Ngọc Khánh, quận B, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10101170626 do UBND thành phố H cấp ngày 28/01/2003, được đăng ký sang tên ông Hoàng Đình Tr, bà Phạm Thị L ngày 24/10/2015 tại Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh khu vực B- Hoàn Kiếm- Đống Đa.

Nhận thấy: Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP S. Buộc bà Phạm Thị lan và ông Hoàng Đình Tr phải trả số tiền nợ gốc là 2.650.000.000đồng, Tính đến ngày 11/8/2023 lãi trong hạn là 153.440.827 đồng; lãi quá hạn 2.961.350.000 đồng. Tổng số tiền phải trả cho Ngân hàng là: 5.764.790.827 đồng và chấp nhận yêu cầu phát mại tài sản thế chấp là có căn cứ đúng pháp luật.

[4]. Xét yêu cầu tiếp tục tính lãi của Ngân hàng, theo Hợp đồng tín dụng các bên đã thỏa thuận lãi suất nên Hội đồng xét xử chấp nhận buộc bà Phạm Thị L và ông Hoàng Đình Tr phải trả tiếp tục trả số tiền lãi quá hạn kể từ ngày 12/8/2023 cho Ngân hàng trên số tiền nợ gốc theo mức lãi suất đã được thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng là có căn cứ.

[5]. Xét yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Hồng G và bà Phan Thị Q . Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình thực hiện việc ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trên cơ sở tự nguyện của các bên, thể hiện ông G đã cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu cần thiết liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, từ yêu cầu của ông G nên Văn phòng công chứng Hai Bà Tr đã thực hiện việc công chứng chứng thực Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vào ngày 15/10/ 2015, tiếp theo đã được văn phòng đăng ký đất đai H – khu vực B, Hoàn Kiếm, Đống Đa sang tên bà Phạm Thị L và ông Hoàng Đình Tr vào ngày 24/10/2015 và đã được bà Phạm Thị L và ông Hoàng Đình Tr thực hiện việc giao dịch đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Ngân hàng TMCP S. Qua các tài liệu xác minh, lời khai của các bên đương sự, chứng cứ do các bên cung cấp đã thể hiện rõ tại thời điểm ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vào ngày 15/10/2015 giữa ông G bà Q với ông Tr bà L đủ minh mẫn, không bị ai ép buộc, tự nguyện, trình tự, thủ tục, nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật được quy định tại các Điều 500, 501, 502 và 503 Bộ luật Dân sự nên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số công chứng 1791.2015/HĐCN quyển số 04TP/SCC/HĐGD ngày 15/10/2015 giữa ông G bà Q với ông Tr bà L là có hiệu lực.

[6]. Việc đăng ký sang tên cho ông Hoàng Đình Tr và bà Phạm Thị L và đăng ký giao dịch bảo đảm thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Ngân hàng TMCP S – chi nhánh Đống Đa, đã được văn phòng đăng ký đất đai H – khu vực B, Hoàn Kiếm, Đống Đa sang tên ông Hoàng Đình Tr và bà Phạm Thị L vào ngày 15/10/2015 đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông G.

[7]. Tại phiên tòa ông Hoàng Đình Tr và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Tr trình bày Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét yêu cầu độc lập của ông Tr và không đưa người tham gia tố tụng theo yêu cầu của ông Tr là vi phạm tố tụng không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông Tr và bà L.

Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của ông Tr và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Tr khai không có căn cứ chứng minh, đối với yêu cầu đưa người tham gia tố tụng thực chất yêu cầu này không liên quan đến việc ông Tr và bà L ký Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này là có căn cứ, đúng pháp luật.

[8]. Xét yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hồng G: Tại phiên tòa lần 2 ông G vắng mặt thì bị coi như từ bỏ việc kháng cáo nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông G.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hồng G.

2. Bác yêu cầu kháng cáo của ông Hoàng Đình Tr. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 20/2023/KDTM-ST ngày 11/8/2023 của Tòa án nhân dân quận B 3. Về án phí phúc thẩm: Ông Hoàng Đình Tr phải nộp 2.000.000 án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm được đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0044094 ngày 29/8/2023.

Ông Nguyễn Hồng G phải nộp 2.000.000 án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm được đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0044090 ngày 28/8/2023.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (Ngày 01/02/2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 31/2024/KDTM-PT

Số hiệu:31/2024/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 31/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về