TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 295/2023/DS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 25 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10 mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 309/2022/TLST-DS ngày 30 tháng 11 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2023/QĐST-DS ngày 12 tháng 7 năm 2023 và Quyết định hoàn phiên tòa số 85/2023/QĐST-DS ngày 28 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Q.
Địa chỉ trụ sở chính: Tầng A và Tầng B Tòa nhà S, số A đường P, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyên Tiến T (vắng mặt), ông Lê Minh T1 (có mặt), ông Vương Hải L (vắng mặt), ông Nguyễn Đại A (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Tầng F Tòa nhà P, số B đường U, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn:
1. Ông Lê T2, sinh năm 1992 (vắng mặt).
2. Bà Trần Thị Phương T3, sinh năm 1992 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: 5 đường C, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa đại diện nguyên đơn trình bày:
Ngày 07/02/2018, Ngân hàng TMCP Q - Chi nhánh T4 - Phòng G, sau đây gọi tắt là Ngân hàng và vợ chồng ông Lê T2, bà Trần Thị Phương T3 có ký hợp đồng tín dụng số 0298.18.8xx.HDTD. Theo hợp đồng, Ngân hàng có cho vợ chồng ông T2, bà T3 vay 459.000.000 đồng để thanh toán tiền mua xe ô tô; thời hạn vay 96 tháng (từ ngày 08/02/2018 đến ngày 07/02/2026); lãi suất cho vay là 8,29%/năm được áp dụng trong 12 tháng đầu tiên kể từ ngày giải ngân khoản vay. Sau đó, lãi suất sẽ được điều chỉnh lại 03 tháng một lần bằng lãi suất cơ sở theo quy định của Ngân hàng tại thời điểm điều chỉnh cộng với biên độ 4,09%/năm; lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. Nghĩa vụ trả nợ gốc mỗi tháng 4.780.000 đồng, tháng cuối trả 4.900.000 đồng, trả vào ngày 07 hàng tháng. Trả nợ lãi vào ngày 07 hàng tháng, kỳ trả nợ lãi đầu tiên vào ngày 07/3/2018. Ngoài ra, bên vay còn phải trả phí theo quy định của Ngân hàng từng thời kỳ. Tài sản đảm bảo cho khoản vay là chiếc xe Ô tô nhãn hiệu: KIA, số khung: RNYYE41A6JC1197xx, số máy: G4FGHH6871xx, biển kiểm soát: 51G-562.xx.
Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân đầy đủ số tiền vay cho ông T2, bà T3 theo khế ước nhận nợ số 0298.18.8xx.KUNN ngày 07/02/2018. Ông T2 bà T3 đà trả cho Ngân hàng được 57.360.000 đồng tiền nợ gốc và 36.532.054 đồng tiền nợ lãi. Tuy nhiên từ ngày 07/3/2019, ông T2 bà T3 đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng nên đã phát sinh nợ quá hạn. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm, ông T2 bà T3, còn nợ Ngân hàng tổng số tiền là 750.942.579 đồng trong đó: Nợ gốc 401.640.000 đồng; nợ lãi trong hạn 3.180.726 đồng; nợ lãi quá hạn 346.121853 đồng.
Tại phiên tòa, Ngân hàng yêu cầu ông T2 bà T3 phải trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền còn nợ nêu trên. Ngoài ra, ông T2 bà T3 phải tiếp tục trả lãi cho Ngân hàng kể từ ngày 26/8/2023 trên tổng số tiền mà ông T2 bà T3 có nghĩa vụ phải trả cho Ngân hàng theo mức lãi suất nợ quá hạn được quy định tại Hợp đồng tín dụng số: 0298.18.8xx.HDTD ngày 07/02/2018.
Ngân hàng không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với tài sản bảo đảm là chiếc xe Ô tô nhãn hiệu: KIA, số khung: RNYYE41A6JC1197xx, số máy: G4FGHH6871xx, biển kiểm soát: 51G-562.xx.
Trong suốt quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Lê T2 và bà Trần Thị Phương T3 đều vắng mặt nên không có lời khai.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như sau:
Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến thời điểm hiện nay, thấy rằng Tòa án thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho các đương sự. Tòa án chậm đưa vụ án ra xét xử nên đã vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.
Việc tuân theo pháp luật của các đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án là vi phạm Điều 70, Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa ngày hôm nay, bị đơn vắng mặt đến lần thứ 2 mà không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết Toà án:
Ngân hàng TMCP Q yêu cầu bị đơn ông Lê T2, bà Trần Thị Phương T3 trả nợ vay, đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn ông Lê T2 và bà Trần Thị Phương T3 có nơi cư trú tại Quận A, căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 10.
Xét giấy ủy quyền số 053076.23 ngày 09/5/2023 của bà Trần Thị Thu H ủy quyền cho ông Nguyễn Tiến T, ông Lê Minh T1, ông Vương Hải L và ông Nguyễn Đại A tham gia tố tụng là hợp lệ nên được Tòa án chấp nhận.
[2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng:
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Lê T2 và bà Trần Thị Phương T3 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án nhưng bị đơn không cung cấp chứng cứ, không đến Tòa án làm bản khai đề phản bác yêu cầu của nguyên đơn, từ bỏ quyền lợi hợp pháp của mình. Do đó, Tòa án căn cứ vào các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để giải quyết vụ án. Mặt khác, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bị đơn. Tuy nhiên tại phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải bị đơn vắng mặt. Nguyên đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Tại phiên tòa ngày hôm nay, bị đơn vắng mặt đến lần thứ 2 mà không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Về yêu cầu của nguyên đơn: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, Hội đồng xét xử xét thấy, hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng với ông T2, bà T3 là hợp đồng tín dụng có kỳ hạn. Các bên có thỏa thuận thời hạn vay là 96 tháng, phương thức trả nợ là trả nợ gốc và nợ lãi theo kỳ hạn. Do ông T2, bà T3 vi phạm kỳ hạn trả nợ đã thỏa thuận với Ngân hàng nên Ngân hàng được quyền khởi kiện đối với ông T2, bà T3 để thu hồi nợ.
[3.1] Xét yêu cầu về khoản nợ gốc: Căn cứ vào Hợp đồng tín dụng số: 0298.18.8xx. HDTD ngày 07 tháng 02 năm 2018 và Khế ước nhận nợ số: 0298.18.8xx. KUNN ngày 07/02/2018, Hội đồng xét xử có cơ sở để khẳng định Ngân hàng TMCP Q có cho vợ chồng ông T2 bà T3 vay 459.000.000 đồng. Theo phía Ngân hàng cung cấp, trong quá trình thực hiện hợp đồng bị đơn ông T2, bà T3 mới chỉ thanh toán cho Ngân hàng được 57.360.000 đồng tiền nợ gốc. Do đó, Hội đồng xét xử cần buộc ông T2, bà T3 phải trả cho Ngân hàng khoản tiền nợ gốc còn lại là 401.640.000 đồng.
[3.2] Xét yêu cầu về khoản nợ lãi: Căn cứ vào Hợp đồng tín dụng số: 0298.18.8xx. HDTD ngày 07/02/2018, các bên có thỏa thuận lãi suất cho vay là 8,29%/năm được áp dụng trong 12 tháng đầu tiên kể từ ngày giải ngân khoản vay. Sau đó, lãi suất sẽ được điều chỉnh lại 03 tháng một lần bàng lãi suất cơ sở theo quy định của Ngân hàng tại thời điểm điều chỉnh cộng với biên độ 4,09%/năm; lài quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. Xét thấy, mức lãi suất mà các bên thỏa thuận là phù hợp với khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”. Theo bảng kê do Ngân hàng cung cấp, tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 25/8/2023, ông T2, bà T3 con nợ Ngân hàng số tiền lãi là 349.302.579 đong trong đó: Lãi trong hạn là 3.180.726 đồng và lãi quá hạn 346.121.853 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử cần buộc ông T2 bà T3 phải trả cho Ngân hàng khoản tiền nợ lãi là 349.302.579 đồng. Ngoài ra, ông T2 bà T3 còn phải trả tiền lãi cho Ngân hàng từ ngày 26/8/2023 trên tổng số tiền mà ông T2 bà T3 có nghĩa vụ phải trả cho Ngân hàng theo mức lãi suất quá hạn được quy định tại Hợp đồng tín dụng số: 0298.18.8xx.HDTD ngày 07/02/2018.
[3.3] Về tài sản bảo đảm của khoản vay: Tại mục 2 của Hợp đồng tín dụng số: 0298.18.8xx.HDTD ngày 07/02/2018, các bên có thỏa thuận tài sản đảm bảo cho khoản vay là chiếc xe Ô tô nhãn hiệu: KIA, số khung: RNYYE41A6JC1197xx, số máy: G4FGHH6871xx, biển kiểm soát: 51G-562.xx. Tuy nhiên do Ngân hàng TMCP Q không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với tài sản bảo đảm này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí trên số tiền nguyên đơn yêu cầu được Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 463, Điều 465 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
Căn cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
Căn cứ Điều 6, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn: Buộc ông Lê T2 và bà Trần Thị Phương T3 phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP Q số tiền 750.942.579 đồng (bảy trăm năm mươi triệu, chín trăm bốn mươi hai nghìn, năm trăm bảy mươi chín đồng) trong đó: Nợ gốc 401.640.000 đồng (bốn trăm linh một triệu, sáu trăm bốn mươi nghìn đồng); nợ lãi trong hạn 3.180.726 đồng (ba triệu, một trăm tám mươi nghìn, bảy trăm hai mươi sáu đồng); nợ lãi quá hạn 346.121.853 đồng (ba trăm bốn mươi sáu triệu, một trăm hai mươi mốt nghìn, tám trăm năm mươi ba đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số: 0298.18.8xx.HDTD ngày 07/02/2018.
2. Về án phí: Bị đơn ông Lê T2 và bà Trần Thị Phương T3 phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 34.037.703 đồng (ba mươi tư triệu, không trăm ba mươi bảy nghìn, bảy trăm linh ba đồng).
Ngân hàng TMCP Q không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Q số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 13.176.845 đồng (mười ba triệu, một trăm bảy mươi sáu nghìn, tám trăm bốn mươi lăm đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0019178 ngày 21/11/2022 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Q có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn ông Lê T2 và bà Trần Thị Phương T3 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 295/2023/DS-ST
Số hiệu: | 295/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về