TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 28/2024/DS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong ngày 26 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 205/2023/DSST ngày 01 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng (hợp đồng sử dụng thẻ)” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2024/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2024/QĐST-DS-HPT ngày 26/02/2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S; Địa chỉ trụ sở: Số B N, Phường H, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D; chức danh: Tổng Giám đốc;
Người đại diện theo ủy quyền: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Q và khai thác tài sản Ngân hàng S (Công ty S1); Địa chỉ: B N, phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (giấy ủy quyền 2535A/2022/GUQ-PL ngày 12/10/2022) Ông Phạm Trường T, sinh năm 1994; Địa chỉ liên hệ: Lầu 8, số B N, Phường H, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh nhận ủy quyền lại (Giấy ủy quyền số 2056/2023/UQ-TGĐ ngày 10/7/2023) (Xin vắng mặt).
Bị đơn: Bà Trần Thị Hải L, sinh năm 1980; Địa chỉ cư trú: Số H T, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 25/10/2023, các bản tự khai ngày 29/11/2023, 26/02/2024, 26/3/2024 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần S (sau đây gọi tắt là Ngân hàng S2) có người đại diện theo ủy quyền là ông Phạm Trường T trình bày:
Ngân hàng S2 và bà Trần Thị Hải L thỏa thuận ký kết Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều kiện và điều khoản phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S2 (các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng) ngày 16/02/2017, hạn mức tín dụng là 12.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân, lãi suất 2,15%/tháng (lãi suất trong hạn). Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà L đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 20.301.243 đồng.
Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bà L đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền là 13.511.000 đồng. Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bà L vẫn không có thiện chí trả nợ. Do bà L vi phạm nghĩa vụ thanh toán, ngày 01/09/2018, S2 đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 26/3/2024, bà L còn nợ S2 tổng số tiền là 45.190.186 đồng (Bốn mươi lăm triệu một trăm chín mươi nghìn một trăm tám mươi sáu đồng). Trong đó bao gồm nợ gốc là 14.181.856 đồng, lãi quá hạn là 31.008.330 đồng. Do đó, S2 khởi kiện yêu cầu bà L phải thanh toán làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật tổng số tiền tạm tính đến ngày 26/3/2024 là 45.190.186 đồng. Ngoài ra, bà L còn phải chịu tiền lãi phát sinh từ ngày 27/3/2024 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng.
Bị đơn - bà Trần Thị Hải L trong suốt quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng dưới đây nhưng vẫn vắng mặt, không có lý do:
- Thông báo thụ lý vụ án số 205/TB-TLVA ngày 01/11/2023; Giấy triệu tập số 205/GTT-TA ngày 01/11/2023 (đến Tòa án lúc 08 giờ 30 phút ngày 29/11/2023);
- Giấy triệu tập số 205/GTT-TA ngày 04/12/2023 (đến Tòa án lúc 08 giờ 30 phút ngày 25/122023);
- Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 205/TB-TA ngày 15/01/2024; giấy triệu tập số 205-2/GTT-TA ngày 15/01/2024 (đến Tòa án lúc 10 giờ 00 phút ngày 05/02/2024);
- Thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 205/TB-TA ngày 15/11/2024; Giấy triệu tập số 205-2/GTT-TA ngày 15/01/2024 (đến Tòa án lúc 10 giờ 00 phút ngày 05/2/2024);
- Thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 205/TB-TA ngày 06/2/2024.
Tại phiên toà sơ thẩm, Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 26/3/2024. Đại diện ủy quyền của nguyên đơn có bản tự khai và Tóm tắt sao kê đề ngày 26/3/2024 xác định số nợ tính đến ngày xét xử sơ thẩm (26/3/2024) mà bà L phải có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng S2 tính đến ngày 26/3/2024 là 45.190.186 đồng (Bốn mươi lăm triệu một trăm chín mươi nghìn một trăm tám mươi sáu đồng), trong đó nợ gốc là 14.181.856 đồng, lãi quá hạn là 31.008.330 đồng (tiền lãi quá hạn được tính trên số tiền nợ gốc 14.181.856 đồng với lãi suất quá hạn là 3.225%/tháng). Ngoài ra, bà Trần Thị Hải L còn phải chịu tiền lãi phát sinh từ ngày 27/3/2024 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng.
Bị đơn vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 5 phát biểu quan điểm:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng quy trình tố tụng giải quyết vụ án.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Trần Thị Hải L thanh toán tổng số tiền là 45.190.186 đồng (Bốn mươi lăm triệu một trăm chín mươi nghìn một trăm tám mươi sáu đồng), trong đó nợ gốc là 14.181.856 đồng, lãi quá hạn là 31.008.330 đồng. Thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, bà Trần Thị Hải L còn phải chịu tiền lãi phát sinh từ ngày 27/3/2024 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng. Án phí bà L chịu theo quy định pháp luật. Nguyên đơn được hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại cổ phần S (sau đây gọi tắt là Ngân hàng S2) khởi kiện, yêu cầu bà Trần Thị Hải L trả tiền nợ theo hợp đồng tín dụng thẻ. Trên hợp đồng thẻ ghi địa chỉ bị đơn tại số H T, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả xác minh của Công an p, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện bà L không đăng ký thường trú, tạm trú hay thực tế cư trú tại số H T, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi thực hiện hợp đồng vay, bà L đã cung cấp sổ hộ khẩu thể hiện bà đang cư trú tại địa chỉ 8 T, Phường A, Quận E cho ngân hàng và tại hợp đồng tín dụng bà L cũng đã ghi địa chỉ trên vào giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng. Như vậy, bà L là người đang phải thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng thẻ với Ngân hàng S2 nhưng cung cấp địa chỉ cư trú không đúng hoặc đã chuyển nơi cư trú mà không thông báo cho Ngân hàng S2 nên thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/7/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Do vậy, Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và xác định đây là tranh chấp về hợp đồng dân sự quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Vụ án thuộc trường hợp Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa theo khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về tố tụng: Nguyên đơn là Ngân hàng S2 có đơn đề ngày 26/3/2024 đề nghị được vắng mặt khi Tòa án xét xử vụ án. Bị đơn là bà Trần Thị Hải L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ: Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2024/QĐXXST-DS ngày 05/2/2024 (tham gia phiên tòa lần 01 lúc 09 giờ 30 phút ngày 26/02/2024); Quyết định hoãn phiên toà số 06/2024/QĐST-DS-HPT ngày 26/02/2024; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2024/QĐXXST-DS ngày 26/02/2024 (tham gia phiên tòa lần 02 lúc 09 giờ 30 phút ngày 26/3/2024) và các giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng giữa bà Trần Thị Hải L và Ngân hàng S2 ký ngày 16/02/2017. Ngày 01/09/2018, Ngân hàng S2 đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Tháng 11 năm 2023, Ngân hàng S2 mới khởi kiện bà L để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi quá hạn là hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, bà L không có mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, không có yêu cầu áp dụng thời hiệu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về vấn đề thời hiệu theo khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về yêu cầu của đương sự:
[3.1] Xét bà Trần Thị Hải L đã ký Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 16/02/2017, loại thẻ tín dụng quốc tế Visa Ladies First, số thẻ: 486265- 7384 với Ngân hàng S2 đổ vay khoản tiền là 12.000.000 đồng.
[3.2] Theo Bản tóm tắt sao kê do Ngân hàng S2 nộp cho Tòa án ngày 26/3/2024, Hội đồng xét xử xác định bà L đã bắt đầu sử dụng thẻ từ ngày 31/3/2017. Số tiền bà L đã giao dịch là 20.301.243 đồng, số tiền lãi trong hạn là 4.792.076 đồng, các khoản phí là 2.599.537 đồng, phí trễ hạn 1.002.537 đồng, phí vượt hạn mức là 800.000 đồng và phí thường niên 797.000 đồng, số tiền bà L đã thanh toán là 13.511.000 đồng. Khoản tiền trên được thanh toán cho các khoản phí/lãi kỳ trước và trong kỳ, các giao dịch rút tiền mặt kỳ trước và trong kỳ, các giao dịch mua hàng hóa kỳ trước và trong kỳ theo điều 20 của bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng.
Số tiền nợ gốc còn lại được tính theo cách: số tiền giao dịch - số tiền thanh toán thực tế (số tiền thanh toán thực tế = số tiền bà L thanh toán trừ đi các khoản phí và lãi trong hạn).
Số tiền thanh toán thực tế của bà L được tính như sau: 13.511.000 - 2.599.537 đồng - 4.792.076 đồng = 6.119.387 đồng.
Số thanh toán Các loại phí Lãi trong hạn => Số tiền nợ gốc: 20.301.243 đồng - 6.119.387 đồng = 14.181.856 đồng Tiền giao dịch Tiền thanh toán thực tế.
[3.3] Căn cứ vào Thông báo về việc thay đổi lãi suất và phí phát hành nhanh của thẻ tín dụng quốc tế S2 số 113/TB-TTT ngày 04/7/2011 do Ngân hàng S2 cung cấp, đối chiếu với thời điểm vay thể hiện mức lãi suất 2.15%/tháng áp dụng cho hợp đồng thẻ tín dụng số 486265-7384 đối với bà L là đúng với Thông báo về việc ban hành mức lãi suất. Theo bảng điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S2 cho thấy việc áp dụng các mức lãi suất theo từng thời kỳ Ngân hàng S2 không cần thông báo trước cho chủ thẻ.
[3.4] Căn cứ vào Điều 23 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của S2 có thể hiện nội dung: «Việc không thanh toán ít nhất Số Tiền Tối Thiểu của Chủ Thẻ cho đến kỳ phát hành Thông báo tiếp theo sẽ tạo nên sự vi phạm theo Hợp đồng.... Khi sự kiện vi phạm xảy ra Chủ thẻ hiểu và đồng ý rằng Đơn Vị Phát Hành Thẻ có thể thực hiện một hoặc nhiều hành động sau : .......- Chấm dứt quyền sử dụng thẻ và tiến hành việc thu hồi nợ. - Áp dụng lãi suất quá hạn đối với toàn bộ Dư nợ theo quy định của Đơn Vị Phát Hành Thẻ» [3.5] Căn cứ bản Tóm tắt sao kê ngày 26/3/2024 của Ngân hàng S2 cung cấp cho thấy ngày 01/09/2018 Ngân hàng S2 đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn với dư nợ tại thời điểm này là 14.181.856 đồng làm nợ gốc, áp dụng lãi suất nợ quá hạn là 150% của lãi suất được công bố và áp dụng tại thời điểm hiện tại (lãi suất được áp dụng tại thời điểm hiện tại là 2,15%/tháng theo Thông báo về việc thay đổi lãi suất và phí phát hành nhanh của thẻ tín dụng quốc tế S2 số 113/TB-TTT ngày 04/7/2011). Như vậy, lãi quá hạn của bà L được Ngân hàng S2 tính như sau: 14.181.856 đồng x 3,225%/tháng : 30 ngày = 15.245 đồng/ngày x 2.034 ngày (từ 01/09/2018 - 26/3/2024 = 2.034 ngày) = 31.008.330 đồng.
[3.6] Bà L không có mặt tại Tòa án để cho lời khai hoặc nêu ý kiến về các khoản tiền gốc, tiền lãi đã thanh toán và các khoản phí mà S2 yêu cầu được xem là bà L đã từ bỏ quyền trình bày, đưa ra chứng cứ chứng minh cho mình. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng S2 với số nợ gốc, nợ lãi quá hạn mà Ngân hàng S2 yêu cầu bà L phải trả.
[3.7] Từ các nhận định trên, có căn cứ chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng S2 đối với khoản nợ của thẻ tín dụng số: 486265-7384 của bà L với tổng số tiền (tạm tính đến ngày 26/3/2024) là 45.190.186 đồng, trong đó nợ gốc là 14.181.856 đồng (mười bốn triệu một trăm tám mươi mét nghìn tám trăm năm mươi sáu đồng), lãi quá hạn là 31.008.330 đồng (ba mươi mốt triệu không trăm lẻ tám nghìn ba trăm ba mươi đồng).
[3.8] Về thời hạn thanh toán: Từ tháng 5 năm 2018, bà L đã không thanh toán bất kì khoản tiền nào cho Ngân hàng S2, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng S2. Do vậy, cần buộc bà L thanh toán các khoản nợ làm một lần cho Ngân hàng S2 sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn là Ngân hàng S2 được chấp nhận nên bị đơn là bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn là Ngân hàng S2.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 266; Điều 267; Điều 271 và Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ vào Điều 463 và Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 91 và Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng;
- Căn cứ Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
- Căn cứ Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về Án phí, lệ phí Tòa án;
- Căn cứ Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 17/8/2016 và công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao.
- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần S:
1.1 Buộc bà Trần Thị Hải L phải trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S tổng số tiền là 45.190.186 đồng, trong đó nợ gốc là 14.181.856 đồng (mười bốn triệu một trăm tám mươi mốt nghìn tám trăm năm mươi sáu đồng), lãi quá hạn là 31.008.330 đồng (ba mươi mốt triệu không trăm lẻ tám nghìn ba trăm ba mươi đồng) theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều kiện và điều khoản phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S ngày 16/02/2017.
Việc giao nhận tiền do hai bên tự thực hiện hoặc tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
1.2. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thoả thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
2.1. Bà Trần Thị Hải L chịu 2.259.509 đồng (Hai triệu hai trăm năm mươi chín nghìn năm trăm lẻ chín đồng).
2.2. Hoàn tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền 1.019.610 đồng (Một triệu không trăm mười chín nghìn sáu trăm mười đồng) theo Biên lai thu số AA/2021/0010916 ngày 01/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Về quyền kháng cáo:
Ngân hàng Thương mại Cổ phần S và bà Trần Thị Hải L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 28/2024/DS-ST
Số hiệu: | 28/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về