Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 27/2024/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 27/2024/KDTM-PT NGÀY 30/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 30/01 /2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 238/2023/TLPT-KDTM ngày 16/11/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 25/2023/KDTM-ST ngày 08/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 824 /2023/QĐXXPT-KDTM ngày 11/12/2023; Quyết định hoãn phiên tòa, giữa:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đ.

Địa chỉ: Số 22 Ngô Q3, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, thành phố H Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đình Lâm - Chủ tịch Hội đồng quản trị Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai Xuân Th1ần - Giám đốc Khối quản lý và tái cấu trúc tài sản

Bị đơn: C ty TNHH Đầu tư phát triển Thương mại và XNK Q. Địa chỉ: Số 23 khu X3 thị trấn Văn Điển, huyện T, thành phố H Người đại diện theo pháp luật: Bà Tạ Thị L - Giám đốc.

Địa chỉ: Xóm Trần Phú, xã La Phù, huyện Đ, thành phố H

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Đình Q1, sinh 1968. (Vắng mặt) HKTT: Đội 8 Tân Dân, xã Phương Trung, huyện Th, thành phố H.

Địa chỉ liên hệ: CL2-1 khu đất dịch vụ Man Bồi, tổ 9, phường Phú Lãm, quận Hà Đông, thành phố H 2. Cụ Lý Thị S, sinh năm 1937;

3. Ông Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1959;

4. Bà Phạm Thị T ( mất ngày 14/01/2022).

5. Văn phòng công chứng T1.

Địa chỉ: Số NO-03, LK 01, khu đất dịch vụ, đất ở Hà Trì, phường Hà Cầu, quận Hà Đông, thành phố H Người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà T:

6. Ông Nguyễn Hữu Q, sinh 1959;

7. Anh Nguyễn Tiến Q3, sinh 1990;

8. Anh Nguyễn Thành C, sinh 1993 9. Chị Đặng Minh Th1, sinh 1993;

10. Chị Hoàng Thị Minh T2, sinh 1993.

Cùng cư trú: Số 15 ngõ R, tổ 81B (nay là số 4 ngách 41/35/7 phố Đông Tác), phường Kim Liên, quận Đ, thành phố H Người đại diện theo ủy quyền của ông Q, chị Th1, anh C, chị T2: là anh Nguyễn Tiến Q3. (Có mặt) NỘI DUNG VỤ ÁN Ngân hàng TMCP Đ (gọi là Ngân hàng) trình bày:

Ngày 02/11/2015, C ty TNHH đầu tư phát triển thương mại và xuất nhập khẩu Q (gọi là C ty Q) và Ngân hàng ký Hợp đồng tín dụng số 132/2015/HĐTD/PVB-CNĐĐ Nội dung: Ngân hàng cho C ty Q vay số tiền 2.390.000.000 đồng; Mục đích vay: cấp hạn mức tín dụng; Thời hạn vay: 12 tháng kể từ ngày giải ngân đầu tiên; Lãi suất và phí: theo thỏa thuận theo điều khoản ghi trong HĐTD và khế ước nhận nợ kèm theo.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay là Q3 sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 50; tờ bản đồ số 18; có địa chi: Số 15, ngõ R, tổ 81b, phường Kim Liên, quận Đ, thành phố H. Giấy chứng nhận Q3 sở hữu nhà và quyền sử dụng đất số 0104140070 do UBND thành phố H cấp ngày 30/06/1997 cho ông Nguyễn Hữu Q và bà Phạm Thị T; đăng ký biến động sang ông Nguyễn Đình Q1 ngày 18/05/2015 do Phòng tài nguyên và môi trường quận Đ, thành phố H xác nhận.

Hợp đồng thế chấp số C chứng 6344.2015/HĐTC ngày 02/11/2015 tại Văn phòng C chứng Th. Tài sản được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.

Quá trình thực hiện Hợp đồng cho vay: Ngày 23/11/2015, Ngân hàng đã giải ngân cho C ty Q số tiền 2.390.000.000 đồng theo Khế ước nhận nợ số 02/2015/KUNN/PVB-CNĐĐ. C ty Q đã trả nợ được số tiền nợ lãi là 13.300.143 đồng, sau đó không thực hiện trả nợ. C ty Q đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên toàn bộ khoản vay nêu trên chuyển thành nợ quá hạn với mức lãi suất quá hạn theo thỏa thuận đã ký kết, Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, thông báo, gặp trực tiếp nhưng C ty Q không thực hiện trả nợ cho Ngân hàng.

Tính đến ngày 08/6/2023, C ty Q còn nợ Ngân hàng 2.390.000.000 đồng nợ gốc và 3.116.417.870 đồng nợ lãi; tổng cộng là 5.506.417.870 đồng.

Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

- Buộc C ty Q trả cho Ngân hàng toàn bộ khoản nợ gốc, nợ lãi tính đến ngày 08/6/2023 là 5.506.417.870 đồng.

- Buộc C ty Q tiếp tục thực hiện trả lãi cho Ngân hàng đối với khoản nợ trên từ ngày 09/6/2023 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất thỏa thuận tại các hợp đồng tín dụng đã ký.

- Trong trường hợp C ty Q không thanh toán được toàn bộ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án kê biên, phát mại các tài sản thế chấp là: Q3 sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 50; tờ bản đồ số 18; địa chỉ: Số 15, ngõ R, tổ 81B, phường Kim Liên, quận Đ, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất số 0104140070, hồ sơ gốc số 0062 do Ủy ban nhân dân thành phố H cấp ngày 30/06/1997 cho ông Nguyễn Hữu Q và bà Phạm Thị T; ngày 18/05/2015 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Đình Q1 theo hồ sơ số 1635.CN do Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Đ cấp để thu hồi nợ.

Bị đơn C ty Q do bà Tạ Thị L là giám đốc trình bày:

Ngày 09/8/2015, bà được bà Đỗ Thị Tr và ông Hoàng Văn Q (bà không rõ lai lịch, nơi cư trú) thuê bà làm giám đốc của C ty Q trong thời gian 2 tháng (từ ngày 8/10/2015 đến ngày 10/10/2015), mức thù lao là 15.000.000 đồng/tháng, hai bên ký văn bản thỏa thuận có đóng dấu treo của C ty Q. Theo thỏa thuận với bà Tr, ông Q bà chỉ thực hiện công việc ký tên đại diện C ty Q giúp bà Tr chứ không tham gia hoạt động kinh doanh của C ty; bà thừa nhận đã ký vào các Hợp đồng tín dụng để C ty Q vay tiền Ngân hàng theo chỉ đạo và sự chuẩn bị của bà Tr đối với khoản vay là 1.300.000.000 đồng và khoản vay 2.190.000.000 đồng. Bà Tr chỉ nói với bà số tiền vay trên để công ty kinh doanh làm ăn, bà không nhận, sử dụng số tiền này. Ngoài việc ký tên vay tiền nói trên, bà không tham gia hoạt động nào khác của C ty Q, bà không biết địa chỉ của C ty và địa chỉ của bà Tr, ông Q.

Nay Ngân hàng khởi kiện C ty Q đòi nợ thì bà xác định bà đúng là đại diện C ty Q ký các Hợp đồng tín dụng với Ngân hàng như Ngân hàng đã cung cấp tại Tòa án. Tính từ ngày 08/10/2015 đến nay bà chưa ký văn bản nào về việc thay đổi đại diện theo pháp luật của C ty Q, do đó bà vẫn là người đại diện theo pháp luật của C ty Q tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ án. Bà không có yêu cầu gì trong vụ án, đề nghị Tòa án giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Đình Q1 được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án, không ủy quyền đại diện tham gia tố tụng, không trình bày ý kiến đối với vụ án, không giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

2. Ông Nguyễn Hữu Q, bà Phạm Thị T trình bày: Vợ chồng ông bà nguyên là chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp của nhà đất đang được thế chấp đảm bảo cho khoản vay của C ty Q. Khoảng năm 2015, do cần tiền để kinh doanh nhưng ông bà không rõ thủ tục để vay tiền của Ngân hàng, qua giới thiệu ông bà biết ông Nguyễn Đình Q1 có thể giúp ông bà vay tiền Ngân hàng. Ông bà đã gặp trực tiếp ông Q1 (nhưng không biết nơi ở của ông Q1 ở đâu) và đề nghị ông Q1 giúp ông bà vay khoảng 500.000.000 đồng đến 700.000.000 đồng. Ông Q1 đồng ý nhưng nói rằng điều kiện vay tiền Ngân hàng là phải chuyển nhượng nhà đất của ông bà cho ông Q1 để thế chấp vay tiền.

Ngày 27/4/2015, ông bà và ông Q1 đã ký Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với nhà đất tại thửa đất số 50; tờ bản đồ số 18; địa chỉ tại: Số 15, ngõ R, tổ 81b, phường Kim Liên, quận Đ, thành phố H là tài sản hợp pháp của ông bà đã được cấp giấy chứng nhận. Hợp đồng chuyển nhượng được công chứng tại Văn phòng công chứng T số 248 phố Lê Lợi, thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, thành phố H. Ông bà cho rằng, tuy ông bà tự nguyện ký và biết rõ nội dung hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho ông Q1 nhưng do ông bà thiếu hiểu biết, cho rằng việc ký hợp đồng chuyển nhượng với ông Q1 là thủ tục để ông Q1 có thể mang tài sản của ông bà đi thế chấp vay tiền Ngân hàng chứ không phải ông bà chuyển nhượng đứt đoạn nhà đất của mình cho ông Q1.

Ngay sau khi ký xong hợp đồng, ông bà được ông Q1 cho vay luôn 700.000.000 đồng, và ông bà đã chuyển 3 đợt với tổng số tiền là 49.000.000 đồng cho ông Q1 theo số tài khoản 21310000284577 BIDV Đ để trả tiền lãi của số tiền vay.

Đến tháng 02/2016, đại diện Ngân hàng thông báo cho ông bà biết việc ông Q1 chậm thanh toán tiền lãi vay cho Ngân hàng thì ông bà mới biết việc ông Q1 đã sử dụng nhà đất của ông bà thế chấp cho Ngân hàng để đảm bảo cho khoản vay 2.390.000.000 đồng của C ty Q.

Ngày 15/3/2016, tại Ngân hàng (chi nhánh Đ), ông bà đã tham gia buổi làm việc cùng đại diện Ngân hàng, ông Nguyễn Đình Q1 và ông Hoàng Văn Q (là những thành viên góp vốn của C ty Q). Tại buổi làm việc, ông bà đã yêu cầu ông Q1 cùng C ty Q phải thanh toán trả cho Ngân hàng số tiền còn nợ, ông bà cũng có trách nhiệm thánh toán số tiền nợ gốc là 700.000.000 đồng và lãi theo quy định của Ngân hàng nhưng ông Q1 đã bỏ mặc và nói không có tiền trả Ngân hàng. Sau đó ông bà nhiều lần liên lạc với ông Q1 nhưng ông Q1 đều lẩn tránh. Toàn bộ gia đình ông bà gồm 09 nhân khẩu vẫn sinh sống tại nhà đất nêu trên từ trước đến nay. Ông bà có ý kiến như sau:

- Đề nghị Ngân hàng cho ông bà được thanh toán số tiền mà ông bà thực tế vay của ông Q1 là 700.000.000 đồng.

- Đối với số tiền nợ còn lại đề nghị ông Q1 và C ty Q phải có trách nhiệm trả cho Ngân hàng để giải chấp sổ đỏ trả cho vợ chồng ông bà.

* Ngày 16/8/2022, ông Nguyễn Hữu Q, anh Nguyễn Tiến Q3, anh Nguyễn Thành C có yêu cầu độc lập, cụ thể:

Ông Nguyễn Hữu Q cho rằng giữa vợ chồng ông và ông Nguyễn Đình Q1 ngoài việc ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất còn có Biên bản thỏa thuận ngày 27/4/2015 có nội dung xác định Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất ngày 27/4/2015 giữa vợ chồng ông và ông Q1 chỉ để vay vốn, không phải chuyển nhượng thật. Do đó, các đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Tuyên vô hiệu đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 01667.2015, quyền số 02/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 27/4/2015 giữa ông Nguyễn Hữu Q, bà Phạm Thị T với ông Phạm Đình Q1 được công chứng tại Văn phòng công chứng T.

- Đề nghị Tòa án xem xét trách nhiệm đối với Ngân hàng trong việc thẩm định tài sản, cán bộ tín dụng biết tài sản thế chấp không phải là tài sản của ông Q1 và không có việc Ngân hàng đến kiểm tra và định giá tài sản tại thực địa.

* Ngày 14/01/2022, bà Phạm Thị T chết. Tòa án đã bổ sung những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tổ tụng của bà T gồm có: Ông Nguyễn Hữu Q (vợ bà T), anh Nguyễn Tiến Q3 (con bà T), anh Nguyễn Thành C (con bà T).

3. Văn phòng công chứng T1 (Tên trước đây: Văn phòng công chứng T) trình bày:

Ngày 27/4/2015, Văn phòng công chứng tiếp nhận yêu cầu công chứng Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số 01667.2015, quyền số 02 TP/CC-SCC/HĐGD giữa vợ chồng ông Nguyễn Hữu Q, bà Phạm Thị T và ông Phạm Đình Q1 về việc chuyển nhượng toàn bộ thửa đất số 50, tờ bản đồ số 18 và nhà ở tại số 15, Ngõ R, tố 81b, phường Kim Liên, quận Đ, thành phố H; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 0104140070, hồ sơ gốc số 0062 do UBND thành phố H cấp ngày 30/06/1997 cho ông Nguyễn Hữu Q và bà Phạm Thị T.

Thời điểm công chứng, người yêu cầu công chứng cung cấp đầy đủ bản chính hồ sơ pháp lý chứng minh quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp đối với tài sản chuyển nhượng. Tài sản đủ điều kiện được thực hiện giao dịch theo quy định pháp luật. Các bên tham gia giao kết hợp đồng có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Tất cả các cá nhân tham gia giao dịch đều đồng ý với nội dung Hợp đồng, thừa nhận không bị đe dọa, lừa dối, cưỡng ép và đã tự nguyện giao kết hợp đồng. Quy trình công chứng Hợp đồng nêu trên được thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật về công chứng tại thời điểm công chứng. Các bên tham gia giao dịch cam kết nội dung thỏa thuận trong hợp đồng là đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính khách quan đầy đủ của nội dung thỏa thuận. Nội dung thỏa thuận được các bên ghi nhận và thể hiện trong hợp đồng không trái với quy định của pháp luật. Từ những lẽ trên, Văn phòng công chứng T1 xác định Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số 01667.2015, quyển số 02 TP/CC SCC/HĐGD ngày 27/4/2015 giữa vợ chồng ông Nguyễn Hữu Q, bà Phạm Thị T và ông Phạm Đình Q1 được thực hiện đúng quy định của pháp luật về công chứng và có hiệu lực thi hành với các bên theo quy định của pháp luật đồng thời cung cấp cho Tòa án toàn bộ tài liệu liên quan đến Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên.

Bản án kinh doanh sơ thẩm số 25/2023/KDTM-ST ngày 08/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện T xét xử đã quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần Đ đối với bị đơn là C ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư phát triển thương mại và xuất nhập khẩu Q.

Buộc C ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư phát triển thương mại và xuất nhập khẩu Q trả nợ cho Ngân hàng TMCP Đ theo Hợp đồng hạn mức tín dụng số 132/2015/HĐTD/PVB-CNĐĐ ngày 02/11/2015 và khế ước nhận nợ tính đến ngày 08/6/2023, Số tiền như sau: Nợ gốc: 2.390.000.000 đồng; Nợ lãi:

3.116.417.870 đồng. Trong đó, nợ lãi trong hạn là: 1.899.695.690 đồng, nợ lãi quá hạn là 1.216.722.180 đồng. Tổng cộng: 5.506.417.870 đồng (Năm tỷ năm trăm linh sáu triệu bốn trăm mười bảy nghìn tám trăm bảy mươi đồng).

Kể từ sau ngày xét xử sơ thấm, C ty TNHH đầu tư phát triển thương mại và xuất nhập khấu Q còn tiếp tục phải chịu lãi suất đối với khoản tiền gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký kết.

Trường hợp C ty TNHH đầu tư phát triển thương mại và Xuất nhập khẩu Q không trả được nợ thì Ngân hàng TMCP Đ có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ gồm:

Q3 sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 50; tờ bản đồ số 18; có địa chỉ: Số 15, ngõ R, tổ 81, phường Kim Liên, quận Đ, thành phố H (Giấy chứng nhận Q3 sở hữu nhà và quyền sử dụng đất số 0104140070, hồ sơ gốc số 0062 đo UBND thành phố H cấp ngày 30/06/1997 cho ông Nguyễn Hữu Q và bà Phạm Thị T, ngày 18/05/2015 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Đình Q1 theo hồ sơ số 1635.CN do phòng tài nguyên và môi trường quận Đ thành phố H cấp), theo hợp đồng thế chấp số C chứng 6344.2015/HĐTC ngày 02/11/2015 tại Văn phòng C chứng Th.

2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của Ông Nguyễn Hữu Q, anh Nguyễn Tiến Q3, anh Nguyễn Thành C về việc Tuyên hợp đồng chuyền nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 01667.2015, quyển số 02/TP/CC-SCC/HĐGD do C chúng viên Bùi Thị Thanh - văn phòng công chứng T ký công chứng là vô hiệu.

3. Dành quyền khởi kiện tranh chấp tài sản giữa ông Phạm Hữu Q và ông Nguyễn Đình Q1 giải quyết bằng vụ án khác khi có yêu cầu.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 20/6/2023 anh Nguyễn Tiến Q3 là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Q, bà T cho ông Q1;

không chấp nhận yêu cầu phát mại tài sản bảo đảm; xem xét dấu hiệu lừa đảo trong vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Ngân hàng vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Người kháng cáo giữ yêu cầu kháng cáo bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H trình bày quan điểm và đề xuất hướng giải quyết vụ án: Tại phiên tòa HĐXX đã thực hiện đúng quy định và yêu cầu chung của phiên tòa phúc thẩm: Thành phần HĐXX phúc thẩm, phạm vi xét xử phúc thẩm đúng quy định tại Điều 64 và Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự. Thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 51 BLTTDS. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Các đương sự đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng. Tại phiên tòa, các đương sự đã được thực hiện đầy đủ quyền và nghia vụ theo quy định tại các điều 70,71,72, 73 và 74 Bộ luật tố tụng dân sự.

Quan điểm giải quyết vụ án:

Căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân thành phố H xử:

- Không chấp nhận kháng cáo của anh Q3 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện theo ủy quyền của cụ Lý Thị S, chị Đặng Minh Th1, anh Nguyễn Thành C, chị Hoàng Minh T2 và ông Nguyễn Hữu Q .

- Giữ nguyên Bản án KDTM sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T.

- Anh Q3 phải chịu án phí KDTM phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng:

-Về đơn kháng cáo của anh Nguyễn Tiến Q3 đã nộp trong thời hạn luật định, người kháng cáo đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên kháng cáo là hợp lệ, được chấp nhận.

- Về xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng, quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

- Thẩm quyền: Tòa án nhân dân huyện T giải quyết là đúng thẩm quyền xét xử.

* Xét nội dung kháng cáo:

[1]. Hợp đồng hạn mức tín dụng số 132/2015/HĐTD/PVB-CNĐĐ ngày 02/11/21015 đã được ký kết đúng thẩm quyền, đảm bảo đúng điều kiện về chủ thể. Các bên tham gia ký kết đều tự nguyện, nội dung hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nên hợp đồng có hiệu lực thi hành.

Thực hiện hợp đồng tín dụng: C ty Q đã được Ngân hàng giải ngân theo Khế ước nhận nợ số 02/2015/KUNN/PVB-CNĐĐ ngày 23/11/2015 số tiền 2.390.000.000đồng. Do C ty Q vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu thanh toán nợ gốc 2.390.000.000đồng là có căn cứ.

Theo quy định tại khoản 2.5 Điều 2 Hợp đồng hạn mức tín dụng số 132 quy định: Lãi suất trong hạn là lãi suất cho vay đối với mỗi khoản vay tại thời điểm giải ngân được ghi cụ thể trong mỗi khế ước nhận nợ và được điều chỉnh theo quy định của ngân hàng từng thời kỳ. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn.

Tại thời điểm giải ngân theo Khế ước nhận nợ số 02 thì lãi suất trong hạn áp dụng trong 03 tháng đầu kể từ ngày 23/11/2015 là 10,2%/năm. Lãi suất vay được điều chỉnh theo công thức bằng lãi suất tiền gửi Ngân hàng Đại Chúng 12 tháng lĩnh lãi cuối kỳ áp dụng cho khách hàng cá nhân theo quy định của Ngân hàng tại kỳ điều chỉnh + Biên độ 3%/năm.

Căn cứ tài liệu do ngân hàng xuất trình và bảng kê tính lãi thì Ngân hàng đã điều chỉnh mức lãi suất trong hạn theo từng thời kỳ tương ứng với nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ của bị đơn. Tính đến ngày 08/6/2023, C ty Q còn nợ lãi trong hạn 1.899.695.690đồng, nợ lãi quá hạn 1.216.722.180đồng. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.

[2]. Xét yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm: Hợp đồng thế chấp tài sản được các bên tham gia ký kết tự nguyện và đủ năng lực hành vi dân sự, hợp đồng thế chấp đã được công chứng, chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền. Tài sản mang thế chấp đều thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người thế chấp, các tài sản thế chấp đều đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định. Nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật nên Hợp đồng thế chấp có hiệu lực thi hành đối với các bên. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm của Ngân hàng trong trường hợp C ty Q không trả nợ là có căn cứ.

[3]. Xét yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Tiến Q3 là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người đại diện theo ủy quyền cho rằng nguồn gốc nhà đất tại thửa đất số 50, tờ bản đồ số 18, địa chỉ: số 15, ngõ R, tổ 81B, phường Kim Liên, quận Đ, thành phố H là của gia đình anh. Không có việc chuyển nhượng thật giữa bố mẹ anh là ông Q, bà T cho ông Q1 mà bản chất giữa hai bên là giao dịch vay tiền theo Biên bản thỏa thuận ngày 27/4/2015.

Xét thấy, ngày 27/4/2015, tại Văn phòng công chứng T (nay là Văn phòng công chứng T1), vợ chồng ông Q, bà T cùng ông Q1 đã ký Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số công chứng 01667.2015, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD. Tại Điều 7 hợp đồng các bên đã thống nhất "tự đọc nguyên văn bản hợp đồng này, đã hiểu rõ quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của mình và hậu quả pháp lý của việc giao kết hợp đồng này". Việc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong gia đình ông Q cho rằng không có việc chuyển nhượng thực tế tài sản nhà đất tại số 15, ngõ R, tổ 81B, phường Kim Liên, quận Đ, thành phố H cho ông Q1 mà việc ký hợp đồng chuyển nhượng nhằm mục đích đảm bảo cho việc vay tiền giữa vợ chồng ông Q với ông Q1 theo Biên bản thỏa thuận ngày 27/4/2015.

Tại văn phòng công chứng để thực hiện công chứng hợp đồng chuyển nhượng, các bên không xuất trình bất kỳ tài liệu nào liên quan đến thỏa thuận vay mượn tiền. Theo lời khai của ông Q là nhờ ông Q1 đứng ra vay tiền ngân hàng và được ông Q1 yêu cầu chuyển nhượng nhà đất của ông bà cho ông Q1 để ông Q1 thế chấp cho ngân hàng. Như vậy vợ chồng ông Q đã biết rõ tài sản của mình chuyển nhượng cho ông Q1 để ông Q1 đứng ra vay tiền ngân hàng và đưa cho ông bà số tiền 700 triệu đồng vay được từ Ngân hàng. Do đó Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở số công chứng 01667.2015, quyển số 02 TP/CC- SCC/HĐGD ngày 27/4/2015 được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện, đã thực hiện đúng quy định pháp luật nên yêu cầu độc lập của gia đình ông Q không có căn cứ chấp nhận.

Ngân hàng là bên thứ ba nhận tài sản thế chấp trên theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 0104140070 đã được đăng ký sang tên ông Nguyễn Đình Q1 ngày 18/5/2015. Căn cứ tài liệu, chứng cứ do Ngân hàng xuất trình về việc thẩm định tài sản trước khi nhận thế chấp thì ngân hàng đã thực hiện việc xem xét, thẩm định tài sản thế chấp (có hình ảnh chứng minh theo Phụ lục hình ảnh kèm theo BCĐG số 3331/2015/BCĐG-PĐG.HO ngày 16/10/2015 (Bút lục 687).

Việc anh Q3 cho rằng ngân hàng không thẩm định tài sản thế chấp là không có căn cứ.

Từ những nhận định trên, kháng cáo của anh Nguyễn Tiến Q3 không có căn cứ nên không được chấp nhân.

[4]. Đối với yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Đình Q1: Sau khi Tòa án nhân dân huyện T, nhận được đơn kháng cáo đã thông báo cho người kháng cáo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, nhưng ông Q1 không thực hiện nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí nên việc kháng cáo của ông không hợp lệ nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ xem xét.

Quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Từ những nhận định trên.

Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

QUYT ĐỊNH

1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 25/2023/KDTM-ST ngày 08/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện T.

2. Về án phí phúc thẩm: Anh Nguyễn Tiến Q3 phải chịu 2.000.000đồng án phí được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 63746 ngày 03/7/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Ngày 30/01/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 27/2024/KDTM-PT

Số hiệu:27/2024/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về