TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 25/2024/DS-ST NGÀY 25/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong ngày 25 tháng 3 năm 2024 tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 790/2023/TLST-DS ngày 05 tháng 7 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2024/QĐXX-ST ngày 20 tháng 02 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2024/QĐST - DS ngày 08 tháng 3 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP P;
Trụ sở: Số B N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của Nguyên đơn (Hợp đồng mua bán nợ số: 200.06/2023/HĐMBN/HDB - D&D ngày 28/6/2023): Công ty cổ phần Đ Trụ sở: 64 đường V, Phường T, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của Nguyên đơn (Hợp đồng mua bán nợ số: 306.11/2023/HĐMBN/DD-HD ngày 10/11/2023): Công ty TNHH D Trụ sở: 144 khu phố N, phường L, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Việt H - Chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hữu S - sinh năm 1992 (Văn bản ủy quyền ngày 15/01/2024). (có mặt) Địa chỉ: F đường P, Phường F, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Tùng H1, sinh năm 1977 và ông Vũ Trường S1, sinh năm 1977; (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Tổ H, khu phố Đ, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thúy K, sinh năm 1960 Địa chỉ: Tổ H, khu phố Đ, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 14/6/2023 của Ngân hàng TMCP Phát Triển Thành phố P (sau đây gọi là Nguyên đơn) cùng trình bày của ông Nguyễn Hữu S là người đại diện theo ủy quyền trong quá trình tham gia tố tụng trình bày:
Ngày 29/3/2022 giữa Nguyên đơn và bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 (sau đây gọi là Bị đơn) có ký Hợp đồng tín dụng hạn mức số 13325/22MN/HĐTD ngày 29/3/2022; Hợp đồng tín dụng số 13326/22MN/HĐTD ngày 29/3/2022; Đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số 13325/22MN/HĐTD/KUNN01 ngày 30/3/2022; Đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số 13326/22MN/HĐTD/KUNN01 ngày 30/3/2022, theo đó Nguyên đơn cho Bị đơn vay lần lượt số tiền vay là 1.200.000.000 đồng và 500.000.000 đồng. Bảo đảm cho khoản vay là tài sản Quyền sử dụng đất tọa lạc tại thửa đất số 87 tờ bản đồ số 14, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 883375, số vào sổ cấp GCN: CS 08473 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 10/01/2020. Theo Hợp đồng Thế chấp Quyền sử dụng đất số 11545/22MN/HĐBĐ ngày 29/3/2022. Công chứng tại Văn Phòng C, tỉnh Đồng Nai, số công chứng 003683, quyển số 14/2022 TP/CC-SCC/HĐGD. Đăng ký giao dịch đảm bảo tại Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - Chi nhánh B ngày 30/3/2022.
Ngày 08/4/2022, giữa Nguyên đơn và Bị đơn bà Nguyễn Thị Tùng H1 có ký Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng cá nhân kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số L220407101216107 theo đó Nguyên đơn cho Bị đơn vay hạn mức là 100.000.000 đồng. Không bảo đảm tài sản cho khoản vay.
Bị đơn đã thanh toán cho Nguyên đơn đối với 02 hợp đồng tín dụng tổng số tiền gốc là 86.895.684 đồng (tám mươi sáu triệu tám trăm chín mươi lăm nghìn sáu trăm tám mươi tư đồng), số tiền lãi là 156.491.535 đồng (một trăm năm mươi sáu triệu bốn trăm chín mươi mốt nghìn năm trăm ba mươi lăm đồng). Tổng cộng gốc, lãi đã thanh toán là: 243.387.279 đồng (hai trăm bốn mươi ba triệu ba trăm tám mươi bảy nghìn hai trăm bảy mươi chín đồng); số tiền nợ thẻ tín dụng gồm tiền gốc là 88.164.316 đồng và tiền lãi là 26.310.740 đồng. Nguyên đơn đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nợ nhưng Bị đơn vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho Nguyên đơn. Do bị đơn vị phạm nghĩa vụ nên Nguyên đơn khởi kiện tại Tòa án.
Tại thời điểm làm đơn khởi kiện, Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 phải thanh toán ngay một lần toàn bộ nợ gốc và lãi cho ngân hàng theo Hợp đồng tín dụng đã ký với tổng số tiền là 1.727.376.072 đồng (một tỷ bảy trăm hai mươi bảy triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn không trăm bảy mươi hai đồng). Trong đó: Gốc: 1.624.940.000 đồng; Lãi trong hạn: 67.029.847 đồng; Lãi quá hạn: 35.406.225 đồng (lãi tạm tính đến ngày 18/05/2023); Trường hợp bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng, đề nghị Quý Tòa cho ngân hàng yêu cầu Cơ quan Thi hành án phát mãi tài sản đã thế chấp tại ngân hàng, toàn bộ số tiền thu được từ việc phát mãi tài sản đảm bảo được dùng để cấn trừ nghĩa vụ trả nợ của bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 đối với ngân hàng. Nếu số tiền phát mãi tài sản đảm bảo không đủ thanh toán hết khoản nợ của bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 tại ngân hàng, thì bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 phải có nghĩa vụ trả hết; Buộc bà Nguyễn Thị Tùng H1 phải thanh toán ngay một lần toàn bộ nợ gốc và lãi cho ngân hàng theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng nêu trên với tổng số tiền là: 114.475.056 đồng (một trăm mười bốn triệu bốn trăm bảy mươi lăm nghìn không trăm năm mươi sáu đồng). Trong đó: nợ gốc 88.164.316 đồng; nợ lãi 26.310.740 đồng (lãi tạm tính đến ngày 18/05/2023) và bà Nguyễn Thị Tùng H1 còn phải thanh toán phần nợ lãi phát sinh đối với số nợ còn lại theo mức lãi suất quá hạn thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng đã ký kết với ngân hàng.
Ngày 28/6/2023, Nguyên đơn đã bán khoản nợ của khách hàng bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 cho Công ty cổ phần Đ theo Hợp đồng mua bán nợ số 2000.06/2023/HDMBN/HDB-D&D ngày 28/6/2023 được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố P (H3) và Công ty cổ phần Đ.
Ngày 10/11/2023, Công ty cổ phần Đ đã bán khoản nợ của khách hàng bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 cho Công ty TNHH D theo Hợp đồng mua bán nợ số 306.11/2023/HDMBN/DD-HD ngày 10/11/2023 được ký kết giữa Công ty TNHH D và Công ty cổ phần Đ.
Ngày 10/11/2023, Công ty TNHH D đã ủy quyền lại cho Nguyên đơn tham gia tố tụng theo Hợp đồng ủy quyền số 306.11/2023/HDMBN/DD-HD ngày 10/11/2023 được ký kết giữa Công ty TNHH D và Công ty cổ phần Đ.
Nay ông Nguyễn Hữu S đại diện cho Công ty TNHH D đề nghị Tòa án giải quyết những vấn đề sau đây đối với bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 như sau:
Buộc bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 phải thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi cho Công ty TNHH D với Hợp đồng tín dụng hạn mức số 13325/22MN/HĐTD ngày 29/3/2022 và Hợp đồng tín dụng số 13326/22MN/HDTD ngày 29/3/2022 tổng số tiền tạm tính đến ngày 25/3/2024 là 1.999.910.222 đồng (trong đó: Nợ gốc: 1.624.940.000 đồng, L trong hạn: 112.106.983 đồng, L quá hạn là 262.863.239 đồng). Buộc bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 phải thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi cho Công ty TNHH D theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng cá nhân kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số 173704070002910 ngày 08/4/2022 tính đến ngày 25/3/2024 với tổng số tiền là 150.921.819 đồng (trong đó: Nợ gốc: 88.164.316 đồng, L trong hạn: 32.443.809 đồng, L quá hạn là 30.313.694 đồng).
Buộc bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 tiếp tục phải thanh toán cho Công ty TNHH D1 tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng, Giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ ban hành kèm theo hợp đồng tín dụng, Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng cá nhân kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số L220407101216107 ngày 08/4/2022.
Trường hợp bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Công ty TNHH D, đề nghị Quý Tòa cho Công ty TNHH D yêu cầu Cơ quan Thi hành án phát mãi tài sản đã thế chấp tại H3, toàn bộ số tiền thu được từ việc phát mãi tài sản đảm bảo được dùng để cấn trừ nghĩa vụ trả nợ của bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 đối với Công ty TNHH D. Nếu số tiền phát mãi tài sản đảm bảo không đủ thanh toán hết khoản nợ của bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 tại Công ty TNHH D, thì bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 phải có nghĩa vụ trả hết khoản nợ cho Công ty TNHH D.
* Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1: Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và cũng không nộp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào liên quan đến vụ án mặc dù Tòa án đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng.
Tại biên bản xác minh ở Công an phường H, thành phố B thể hiện bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 có đăng ký thường trú tại địa phương nhung đã đi khỏi địa phương từ trước thời điểm ký các hợp đồng tín dụng. Do vậy, có căn cứ xác định việc niêm yết công khai các văn bản tố tụng không đảm bảo cho bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 nhận được thông tin về văn bản cần được cấp, tống đạt và thông báo nên Tòa án đã tiến hành thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật nhung bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 vẫn vắng mặt không có lý do trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thủy K trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày 04/01/2024: Bà có thuê mặt bằng đối với diện tích đất khoảng 43,7m2 thuộc thửa đất số 87 tờ bản đồ số 14 phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai của bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 vào tháng 5/2022. Hai bên có thỏa thuận hợp đồng viết tay với thời hạn thuê là 5 năm, mỗi tháng thuê là 4.500.000 đồng/tháng. Năm 2023 đến nay thì giá thuê lên 5.000.000 đồng/tháng, bà có giữa 01 bản hợp đồng nhung sau đó đã làm mất, nay không cung cấp được cho Tòa án. Sau khi thuê thì bà có dựng nhà tạm mái tôn và cột sắt, mua sắm bàn ghế và dụng cụ nấu nướng để buôn bán đồ ăn. Bà đã trả đủ tiền thuê cho bà H1 và ông S1 đến tháng 01/2024, mỗi khi trả tiền thì bà nhờ con bà chuyển khoản cho bà H1, bà có gọi điện báo cho bà H1 là Ngân hàng khởi kiện và Tòa án đã xem xét thẩm định nhưng bà H1 nói không lên Tòa và khuyên bà cũng đừng lên Tòa án làm việc. Nay Ngân hàng khởi kiện bà H1 và ông S1 về tranh chấp hợp đồng tín dụng thì bà không có ý kiến gì, bà không tranh chấp gì về các tài sản bà đã chuẩn bị, bà sẽ di dời các tài sản trên khi bản án có hiệu lực pháp luật. Do tuổi già sức yếu và công việc bận rộn nên bà đề nghị được vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ, việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng, thủ tục hòa giải, tiếp cận công khai chứng cứ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Việc Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn thanh toán số tiền còn nợ theo Hợp đồng tín dụng số 13326/22MN/HĐTD ngày 29/03/2022, Hợp đồng tín dụng số 13325/22MN/HĐTD ngày 29/8/2022 và Thẻ tín dụng ngày 08/04/2022, cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là có căn cứ pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn (người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng là Công ty TNHH D) đối với bà Nguyễn Thị Tùng H1, ông Vũ Trường S1. Buộc bà Nguyễn Thị Tùng H1, ông Vũ Trường S1 phải thanh toán cho nguyên đơn (người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng là Công ty TNHH D) tổng số tiền là 1.999.910.222 đồng (trong đó: Nợ gốc: 1.624.940.000 đồng, L trong hạn: 112.106.983 đồng, Lãi quá hạn là 262.863.239 đồng) của khoản nợ 02 hợp đồng tín dụng và số tiền 150.921.819 đồng (trong đó: nợ gốc 88.164.316 đồng, lãi trong hạn là 32.443.809 đồng và lãi quá hạn là 30.313.694 đồng). Về án phí dân sơ thẩm và chi phí tố tụng khác: bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” với bị đơn. Căn cứ 02 hợp đồng tín dụng, Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng, chứng minh nhân dân số 272098232 cấp cho bà Nguyễn Thị T Hoa ngày 29/4/2010, căn cước công dân số 075067019462 cấp cho ông Vũ Trường S1 ngày 27/12/2021; Biên bản xác minh tại Công an phường H, thành phố B xác định bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 có nơi thường trú tại Tổ H, khu phố Đ, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Về tư cách tố tụng:
Căn cứ Hợp đồng mua bán nợ số: 200.06/2023/HĐMBN/HDB - D&D ngày 28/6/2023 giữa Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố P và Công ty cổ phần Đ thì Công ty cổ phần Đ mua lại toàn bộ khoản nợ của Bị đơn tại Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố P và Căn cứ Hợp đồng mua bán nợ số: 306.11/2023/HĐMBN/DD-HD ngày 10/11/2023 giữa Công ty cổ phần Đ và Công ty TNHH D thì Công ty TNHH D mua lại toàn bộ khoản nợ của Bị đơn tại Công ty cổ phần Đ nên Công ty TNHH D là tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của Nguyên đơn.
- Về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa: Bị đơn bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có yêu cầu giải quyết vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Xét yêu cầu của Nguyên đơn về việc yêu cầu Bị đơn phải trả số tiền 1.999.910.222 đồng (trong đó: Nợ gốc: 1.624.940.000 đồng, L trong hạn: 112.106.983 đồng, L quá hạn là 262.863.239 đồng) theo Hợp đồng tín dụng hạn mức số 13325/22MN/HĐTD ngày 29/3/2022 và Hợp đồng tín dụng số 13326/22MN/HĐTD ngày 29/3/2022. Hội đồng xét xử nhận định:
[2.1] Căn cứ Hợp đồng tín dụng số 13326/22MN/HĐTD ngày 29/3/2022 giữa Nguyên đơn và Bị đơn thì Nguyên đơn đồng ý cho Bị đơn vay 500.000.000 đồng.
Căn cứ đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 13326/22MN/HĐTD/KUNN01 ngày 30/3/2022 thì Nguyên đơn cho Bị đơn vay 500.000.000 đồng; Thời hạn vay: 60 tháng, từ ngày 31/3/2022 đến ngày 30/3/2027; Mục đích sử dụng vốn: sản phẩm chuẩn cho vay tiêu dùng mua sắm vật dụng gia đình; Lãi suất vay trong hạn: 9%/năm; Lãi suất cho vay trong hạn được điều chỉnh 3 tháng/lần theo công thức sau: Lãi suất cho vay của các kỳ thay đổi lãi suất tiếp theo = Lãi suất LS13 + 3,9%/năm,.... Mức phạt chậm trả lãi: 10%/năm. Đối chiếu chi tiết hợp đồng vay và bảng tổng hợp nợ đã thanh toán thể hiện Bị đơn đã thanh toán cho Nguyên đơn số tiền gốc tổng cộng là 75.060.000 đồng và trả tiền lãi tổng cộng là 33.845.568 đồng.
[2.2] Căn cứ Hợp đồng tín dụng số 13325/22MN/HĐTD ngày 29/3/2022 giữa Nguyên đơn và Bị đơn thì Nguyên đơn đồng ý cho Bị đơn vay 1.200.000.000 đồng.
Căn cứ đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số 13325/22MN/HĐTD/KUNN01 ngày 30/3/2022 thì Nguyên đơn cho Bị đơn vay 1.200.000.000 đồng; Thời hạn vay: 12 tháng, từ ngày 31/3/2022 đến ngày 30/3/2023; Mục đích sử dụng vốn: Sản phẩm chuẩn cho vay bổ sung VLĐ đồ nội thất, mua gỗ công nghiệp gia công giường, tủ, quần áo, bàn ghế, ...; Lãi suất vay trong hạn: 8,5%/năm; Lãi suất cho vay trong hạn được điều chỉnh 3 tháng/lần theo công thức sau: Lãi suất cho vay của các kỳ thay đổi lãi suất tiếp theo = Lãi suất LS13 + 3,9%/năm,.... Mức phạt chậm trả lãi: 10%/năm. Đối chiếu chi tiết hợp đồng vay và bảng tổng hợp nợ đã thanh toán thể hiện Bị đơn đã thanh toán cho Nguyên đơn số tiền lãi tổng cộng là 85.428.711 đồng.
Từ các căn cứ trên, thể hiện giữa Bị đơn và Nguyên đơn đã giao kết 02 hợp đồng vay tài sản.
Căn cứ bảng chiết tính của Nguyên đơn tại phiên tòa thì tính đến ngày 25/3/2024 số nợ còn lại của Bị đơn đối với 02 Hợp đồng tín dụng trên là 1.999.910.222 đồng (trong đó: Nợ gốc: 1.624.940.000 đồng, L trong hạn: 112.106.983 đồng, L quá hạn là 262.863.239 đồng). Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn, buộc Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn nợ gốc, lãi tính đến ngày 25/3/2024 là 1.999.910.222 đồng.
[2.3] Xét yêu cầu của Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn phải trả tiền lãi phát sinh từ ngày 26/3/2024 cho đến khi trả hết nợ, Hội đồng xét xử xét thấy: Yêu cầu này của Nguyên đơn là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
[2.4] Xét yêu cầu của Nguyên đơn về việc yêu cầu được phát mãi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ trong trường hợp Bị đơn không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Nguyên đơn. Xét thấy:
Căn cứ Hợp đồng Thế chấp Quyền sử dụng đất số 11545/22MN/HĐBĐ ngày 29/3/2022; Căn cứ Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 29/3/2022; Xác nhận của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - Chi nhánh B ngày 30/3/2022 thì bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 đã thế chấp Quyền sử dụng đất tọa lạc tại thửa đất số 87 tờ bản đồ số 14, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 883375, số vào sổ cấp GCN: CS 08473 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 10/01/2020 để đảm bảo cho khoản vay của Bị đơn.
Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở xác định việc thế chấp tài sản bảo đảm là đúng quy định nên yêu cầu của Nguyên đơn là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận cho Nguyên đơn được yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ trong trường hợp Bị đơn không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Nguyên đơn.
Khi đăng ký giao dịch bảo đảm Nguyên đơn giữ bản chính Giấy chứng nhận đối với tài sản thế chấp nên sau khi Bị đơn hoàn tất nghĩa vụ trả nợ cho Nguyên đơn, Nguyên đơn phải trả lại bản chính các Giấy chứng nhận của tài sản bảo đảm cho Bị đơn.
[2.5] Xét yêu cầu của Nguyên đơn về việc yêu cầu Bị đơn tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ cho đến khi thanh toán hết nợ nếu số tiền phát mãi tài sản đảm bảo không đủ. Xét thấy yêu cầu của Nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của Nguyên đơn.
[3] Xét yêu cầu của Nguyên đơn về việc yêu cầu Bị đơn phải trả số tiền 150.921.819 đồng (trong đó: nợ gốc 88.164.316 đồng, lãi trong hạn là 32.443.809 đồng và lãi quá hạn là 30.313.694 đồng) theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng cá nhân kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số L220407101216107 ngày 08/4/2022. Hội đồng xét xử nhận định:
[3.1] Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng cá nhân kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số L220407101216107 ngày 08/4/2022, thì Nguyên đơn cho Bị đơn bà Nguyễn Thị Tùng H1 hạn mức tín dụng được cấp là 100.000.000 đồng; Tại mục 9 xác định thông tin của Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng cá nhân kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng hai bên xác nhận thông tin trong đó có thỏa thuận “3. H3 có thể thay đổi nội dung Bản Điều Khoản và Điều Kiện Sử Dụng Thẻ Tín Dụng H3 và công bố trên website chính thức của H3 hoặc dưới hình thức khác mà H3 cho là phù hợp. Việc thay đổi nội dung điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng H3 sẽ không cần sự chấp thuận của khách hàng.”. Căn cứ Thông báo triển khai chương trình ưu đãi mở thẻ tín dụng dành cho khách hàng vay có tài sản bảo đảm số 214/2021/TB-TGĐ ngày 08/4/2021, Quyết định điều chỉnh lãi suất của thẻ tín dụng số 3111/2022/QĐ-TGĐ ngày 24/11/2022 và Quyết định ban hành lãi suất thẻ tín dụng số 939/2023/QĐ-TGĐ ngày 12/4/2023 của Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố P. Đối chiếu với bảng kê rút tiền, bảng tổng hợp nợ đã thanh toán và các thông báo và quyết định trên của Nguyên đơn. Có căn cứ bị đơn bà Nguyễn Thị Tùng H1 có vay tiền của Nguyên đơn nợ gốc là 88.164.316 đồng. Do đó nay Nguyên đơn buộc bị đơn trả số tiền tổng là 150.921.819 đồng (trong đó: nợ gốc 88.164.316 đồng, lãi trong hạn là 32.443.809 đồng và lãi quá hạn là 30.313.694 đồng) là có căn cứ.
[3.2] Xét nghĩa vụ liên đới trả nợ: Ngày 29/3/2022, Bị đơn bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 cùng vay của Nguyên đơn tổng số tiền 1.700.000.000 đồng theo 02 Hợp đồng tín dụng số 13325/22MN/HĐTD và 13326/22MN/HĐTD cùng ngày 29/3/2022, mục đích vay tiền là mua sắm vật dụng gia đình. Đến này 08/4/2022 thì Bị đơn bà Nguyễn Thị Tùng H1 tiếp tục có Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng cá nhân kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng vay tiền của Nguyên đơn, trong đó thể hiện thông tin người hôn phối Vũ Trường S1. Bị đơn bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 có quan hệ vợ chồng. Từ đó có đủ cơ sở xác định bà H1 sử dụng số tiền vay của Nguyên đơn vào mục đích kinh doanh để phát triển kinh tế gia đình, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Do đó, cần buộc ông S1 cùng bà H1 có nghĩa vụ liên đới trả cho Nguyên đơn số tiền gốc đã vay và tiền lãi theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 288 Bộ luật dân sự; Điều 27, Điều 33, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định nghĩa vụ chung về tài sản của bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 trong thời kỳ hôn nhân.
[4] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ đối với tài sản bảo đảm và chi phí thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng là 10.000.000 đồng, chi phí này Nguyên đơn đã nộp tạm ứng.
Căn cứ quy định tại Điều 157, Điều 158, Điều 180 của Bộ luật Tố tụng Dân sự thì Bị đơn phải chịu 10.000.000 đồng chi phí trên nên Bị đơn có trách nhiệm hoàn trả lại Nguyên đơn là 10.000.000 đồng.
[5] Về án phí: Căn cứ Khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, trả lại Nguyên đơn 31.910.641 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp.
Bị đơn phải chịu 75.016.641 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
[6] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 147; Điều 157; Điều 158; Điều 180; Điều 227; Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273; Khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 463 và Điều 466 Bộ luật dân sự.
- Căn cứ vào Điều 91, Điều 95 và Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
- Căn cứ vào Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014);
- Căn cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
- Căn cứ vào Điều 6, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
- Căn cứ Nghị quyết số: 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn là Công ty TNHH D.
1.1. Buộc bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 có trách nhiệm trả cho Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn là Công ty TNHH D1 tiền 1.999.910.222 đồng (trong đó: Nợ gốc: 1.624.940.000 đồng, L trong hạn: 112.106.983 đồng, L quá hạn là 262.863.239 đồng) theo Hợp đồng tín dụng hạn mức số 13325/22MN/HĐTD ngày 29/3/2022 và Hợp đồng tín dụng số 13326/22MN/HĐTD ngày 29/3/2022; đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số 13325/22MN/HĐTD/KUNN01 ngày 30/3/2022; đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số 13326/22MN/HĐTD/KUNN01 ngày 30/3/2022.
Buộc bà Nguyễn Thị Tùns H1 và ông Vũ Trường S1 có trách nhiệm tiếp tục trả cho Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn là Công ty TNHH D tiền lãi phát sinh từ ngày 26/3/2024 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng hạn mức số 13325/22MN/HĐTD ngày 29/3/2022 và Hợp đồng tín dụng số 13326/22MN/HĐTD ngày 29/3/2022; đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số 13325/22MN/HĐTD/KUNN01 ngày 30/3/2022; đề nghị giải ngân kiêm Khế ước nhận nợ số 13326/22MN/HĐTD/KUNN01 ngày 30/3/2022.
1.2. Trường hợp bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn là Công ty TNHH D thì Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn là Công ty TNHH D được quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp theo Hợp đồng Thế chấp Quyền sử dụng đất số 11545/22MN/HĐBĐ ngày 29/3/2022. Tài sản bảo đảm cụ thể như sau: Quyền sử dụng đất tọa lạc tại thửa đất số 87 tờ bản đồ số 14, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 883375, số vào sổ cấp GCN: CS 08473 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 10/01/2020.
1.3. Trường hợp số tiền phát mãi tài sản đảm bảo không đủ trả hết nợ thì bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 phải có nghĩa vụ tiếp tục trả nợ cho Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn là Công ty TNHH D cho đến khi trả hết nợ.
1.4. Sau khi bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 hoàn tất nghĩa vụ trả nợ thì Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn là Công ty TNHH D có trách nhiệm trả lại bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 bản chính giấy tờ sau: Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số cư 883375, số vào sổ cấp GCN: CS 08473 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 10/01/2020.
1.5. Buộc bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 có trách nhiệm liên đới trả cho Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn là Công ty TNHH D1 tiền 150.921.819 đồng (trong đó: nợ gốc 88.164.316 đồng, lãi trong hạn là 32.443.809 đồng và lãi quá hạn là 30.313.694 đồng) theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng cá nhân kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số L220407101216107 ngày 08/4/2022.
Buộc bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 có trách nhiệm tiếp tục trả cho Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn, Công ty TNHH D tiền lãi phát sinh từ ngày 26/3/2024 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng cá nhân kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số L220407101216107 ngày 08/4/2022.
2. Về chi phí tố tụng: bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 phải trả lại cho Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn là Công ty TNHH D1 tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).
3. Về án phí: bà Nguyễn Thị Tùng H1 và ông Vũ Trường S1 phải chịu 75.016.641 đồng (bảy mươi lăm triệu không trăm mười sáu ngàn sáu trăm bốn mươi mốt đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
H2 lại Tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn là Công ty TNHH D1 tiền 31.910.641 đồng (ba mươi mốt triệu chín trăm mười ngàn sáu trăm bốn mươi mốt đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0008321 ngày 27/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
4. Về quyền kháng cáo:
Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 25/2024/DS-ST
Số hiệu: | 25/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về