TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 24/2023/DS-PT NGÀY 16/01/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 16 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai vụ án thụ lý số 477/2022/TLPT- DS ngày 10 tháng 11 năm 2022, về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 24 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 505/2022/QĐ-PT ngày 29/11/2022, Quyết định hoãn phiên toà số 531/2022/QĐPT-HPT ngày 08/12/2022, Quyết định hoãn phiên toà số 559/2022/QĐPT-HPT ngày 21/12/2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần V(gọi tắt là VPBank );
Trụ sở: Số 89 L, phường L, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Q; Địa chỉ: Tầng 7 Tòa nhà Việt Hải – số 78 D, phường D, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Diệu A, sinh năm 1989; Ông Nguyễn Hoàng M, sinh năm 1989;
Cùng địa chỉ: Phòng 308 nhà A8 tập thể V, phố V, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Diệu A, ông Nguyễn Hoàng M : Bà Nguyễn Mai A, sinh năm 1979; Địa chỉ: Phòng 404 nhà A8 tập thể V (cạnh trường thực nghiệm mầm non hoa hồng), phố V, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Nguyễn Mai A, sinh năm 1979; Địa chỉ: Phòng 404 nhà A8 tập thể V (cạnh trường thực nghiệm mầm non hoa hồng), phố V, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội;
Đại diện theo uỷ quyền của bà Mai A: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1976; Địa chỉ 512, phố T, phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
+ Ông Lê Thế H; bà Nguyễn Thị T; anh Lê Thanh X; anh Lê Đức A; Cùng HKTT: Xóm 3, xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; Nơi tạm trú: Căn hộ chung cư số 206, Tòa nhà B7, khu TTQĐ, phường Thanh X Bắc, quận Thanh X, thành phố Hà Nội.
Người kháng cáo, bà Nguyễn Thị Diệu A, ông Nguyễn Hoàng M là bị đơn; bà Nguyễn Mai A là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án dân sự sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/3/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam T trình bày:
Ngày 23/9/2016, ông Nguyễn Hoàng M, bà Nguyễn Thị Diệu A cùng Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam T (gọi tắt là VPBank ) – Chi nhánh Thăng Long ký Hợp đồng tín dụng số 9423848; Nội dung: VPBank cho ông Minh, bà Diệu A vay số tiền 839.000.000 đồng; Thời hạn vay: 120 tháng tính từ ngày giải ngân vốn vay đầu tiên; Mục đích sử dụng tiền vay: Bổ sung vốn kinh doanh mỹ phẩm Hàn Quốc Ohui;
Để đảm bảo cho khoản vay trên, bà Diệu A và bà Mai A đã thế chấp tài sản là Căn hộ chung cư số 206 B7 Khu tập thể quân đội, phường Thanh X Bắc, quận Thanh X, Hà Nội. Ngày 23/9/2016, bà Diệu A và Mai A và VPBank ký Hợp đồng thế chấp nhà ở để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác, số công chứng 2899/201; quyển số 03-2016 TP/CC-SCC/HĐGD. Việc thế chấp được đăng ký theo quy định pháp luật. Ngày 26/9/2016, Văn phòng Đăng ký đất đai chi nhánh Thanh X đã chứng nhận việc thế chấp nêu trên.
Sau khi hoàn tất các thủ tục, ngày 26/9/2016 VPBank đã giải ngân số tiền 839.000.000 đồng cho bà Diệu A và ông Minh theo Khế ước nhận nợ lần 1/ số 9423848, việc giải ngân bằng hình thức chuyển khoản vào số tài khoản của bà Diệu A.
Ngoài khoản vay trên, ngày 13/9/2016 VPBank và bà Diệu A có ký Giấy đề nghị vay vốn có tài sản bảo đảm, đăng ký phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế không tài sản bảo đảm, mã hồ sơ 9423848.
- Ngày 19/4/2017, VPBank và bà Diệu A đã ký Giấy đăng ký vay tiêu dùng cá nhân, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ và dịch vụ Ngân hàng điện tử số CN/VN0010118/2017/04/22; Theo hợp đồng, VPBank cấp hạn mức thấu chi tài khoản là 200 triệu đồng.
- Ngày 19/4/2017, VPBank và bà Diệu A đã ký Giấy đề nghị phát hành thẻ tín dụng và đăng ký sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử; VPBank đã cấp thẻ và cấp hạn mức tín dụng là 69 triệu đồng cho bà Diệu A.
Quá trình thực hiện hợp đồng, bà Diệu A, ông Minh đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ đối với VPBank kể từ ngày 26/7/2018. VPBank đã nhiều lần đôn đốc nhưng bà Diệu A, ông Minh không thanh toán.
VPBank yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc:
1. Bà Diệu A và ông Minh thanh toán cho VPBank tổng số nợ tạm tính đến ngày 11/9/2020 là 1.394.446.837 đồng; trong đó:
- Hợp đồng tín dụng số 9423848 ngày 23/9/2016 tổng là: 1.079.217.470 đồng, gồm: Nợ gốc: 692.175.014 đồng, nợ lãi: 304.051.310 đồng; phạt: 82.991.147 đồng;
- Hợp đồng thấu chi ngày 19/4/2017 tổng là: 178.722.788 đồng, gồm: Nợ gốc: 93.348.035 đồng; nợ lãi: 63.184.381 đồng; phạt: 22.190.372 đồng;
- Thẻ tín dụng: Nợ gốc: 69 triệu đồng; nợ lãi: 67.506.578 đồng;
2. Buộc bà Diệu A, ông Minh tiếp tục trả lãi trên số nợ gốc thực tế theo 03 hợp đồng trên từ ngày 12/9/2020 cho đến ngày thực tế trả hết nợ.
3. Trường hợp bà Diệu A, ông Minh không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khoản nợ trên, VPBank có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản là căn hộ 206, tòa nhà B7, khu TTQĐ,phường Thanh X Bắc, quận Thanh X, Hà Nội đứng tên Nguyễn Thị Diệu A, Nguyễn Mai A để tất toán khoản vay trên.
* Tại bản tự khai, các lời khai trình bày tại Tòa, bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M trình bày:
Ngày 23/9/2016, ông Minh và bà Diệu A cùng Ngân hàng TMCP Việt Nam T – Chi nhánh Thăng Long ký Hợp đồng tín dụng số 9423848; Nội dung: VPBank cho ông Minh, bà Diệu A vay số tiền 839.000.000 đồng; Thời hạn vay: 120 tháng tính từ ngày giải ngân vốn vay đầu tiên; Mục đích sử dụng tiền vay: Bổ sung vốn kinh doanh mỹ phẩm Hàn Quốc Ohui.
Để đảm bảo cho khoản vay trên, ông Minh, bà Diệu A và bà Mai A đã thế chấp Căn hộ chung cư số 206 B7 Khu tập thể quân đội, phường Thanh X Bắc, quận Thanh X, Hà Nội. Ngày 23/9/2016, ông Minh, bà Mai A với VPBank ký Hợp đồng thế chấp nhà ở để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số công chứng 2899/201; quyển số 03-2016 TP/CC-SCC/HĐGD. Ngày 23/9/2016, chị em ông bà đã có Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Ngày 26/9/2016 Văn phòng Đăng ký đất đai chi nhánh Thanh X đã chứng nhận việc thế chấp nêu trên.
Sau khi hoàn tất các thủ tục, ngày 26/9/2016 VPBank đã giải ngân số tiền 839.000.000 đồng cho bà Diệu A và ông Minh theo Khế ước nhận nợ lần 1, số 9423848, việc giải ngân bằng hình thức chuyển khoản vào số tài khoản của bà Diệu A.
Ngoài khoản vay trên, ngày 13/9/2016 VPBank và bà Diệu A có ký giấy đề nghị vay vốn có tài sản bảo đảm, đăng ký phát hành kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế không tài sản bảo đảm, mã hồ sơ 9423848.
- Ngày 19/4/2017 VPBank và bà Diệu A đã ký Giấy đăng ký vay tiêu dùng cá nhân, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ và dịch vụ ngân hàng điện tử số CN/VN0010118/2017/04/22; Theo hợp đồng, VPBank cấp hạn mức thấu chi tài khoản là 200 triệu đồng.
- Ngày 19/4/2017 VPBank và bà Diệu A đã ký Giấy đề nghị phát hành thẻ tín dụng và đăng ký sử dụng dịch vụ Ngân hàng điện tử; VPBank đã cấp thẻ và cấp hạn mức tín dụng là 69.000.000 đồng cho bà Diệu A.
Quá trình thực hiện hợp đồng, ông Minh và bà Diệu A đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Ông Minh và bà Diệu A xác nhận đến ngày 11/9/2020 còn nợ VPBank :
- Hợp đồng tín dụng số 9423848 ngày 23/9/2016 tổng là: 1.079.217.470 đồng, gồm: Nợ gốc: 692.175.014 đồng; nợ lãi: 304.051.310 đồng; phạt: 82.991.147 đồng;
- Hợp đồng thấu chi ngày 19/4/2017 tổng là: 178.722.788 đồng, gồm: Nợ gốc:
93.348.035 đồng; nợ lãi: 63.184.381 đồng; phạt: 22.190.372 đồng;
- Thẻ tín dụng: Nợ gốc: 69 triệu đồng, nợ lãi: 67.506.578 đồng;
* Tại bản tự khai, các lời khai trình bày tại Tòa, bà Nguyễn Mai A trình bày:
Bà và bà Nguyễn Thị Diệu A là chị em ruột, là đồng sở hữu đối với Căn hộ chung cư tại 206 B7 Khu tập thể quân đội, phường Thanh X Bắc, quận Thanh X, Hà Nội (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CD808030).
Khoảng năm 2016, do bà cần tiền để kinh doanh mỹ phẩm Hàn Quốc Ohui. Trong gia đình đã bàn bạc và thống nhất: Vợ chồng bà Diệu A và ông Minh đứng ký hợp đồng tín dụng với VPBank để vay vốn với nội dung như phần trình bày của ông Minh và bà Diệu A.
Bà Diệu A, ông Minh, bà Mai A xác nhận việc ký các hợp đồng với VPBank là hoàn toàn tự nguyện; các bên không thắc mắc, không tranh chấp khiếu nại gì liên quan đến nội dung hợp đồng đã ký.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Các đương sự vắng mặt; HĐXX công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ.
- Tại đơn xin xét xử vắng mặt của đại diện Ngân hàng TMCP Việt Nam T đã trình bày: Ngân hàng TMCP Việt Nam T xin rút phần yêu cầu trả phạt chậm trả, đối với các yêu cầu khác thì vẫn giữ nguyên. Cụ thể:
1. Buộc bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M thanh toán cho Ngân hàng tổng số nợ tạm tính đến ngày 24/02/2022 là 1.616.294.098 đồng, trong đó:
- Hợp đồng tín dụng số 9423848 ngày 23/9/2016 tổng là: 1.194.920.378 đồng, gồm: Nợ gốc: 692.175.014 đồng, nợ lãi: 502.745.364 đồng;
- Hợp đồng thấu chi ngày 19/4/2017 tổng là: 206.144.563 đồng, gồm: Nợ gốc:
93.348.035 đồng; nợ lãi: 112.796.528 đồng;
- Thẻ tín dụng: Nợ gốc: 68.677.541 đồng; nợ lãi: 146.551.616 đồng; tổng là:
215.229.157 đồng.
2. Buộc bà Diệu A, ông Minh tiếp tục trả lãi trên số nợ gốc thực tế theo 03 hợp đồng trên từ ngày 25/02/2022 cho đến ngày thực tế trả hết nợ.
3. Trường hợp bà Diệu A, ông Minh không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khoản nợ trên, VPBank có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản là căn hộ 206, tòa nhà B7, khu TTQĐ, phường Thanh X Bắc, quận Thanh X, Hà Nội đứng tên Nguyễn Thị Diệu A, Nguyễn Mai A để tất toán khoản vay trên.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 24 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Việt Nam T đối với bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo các Hợp đồng tín dụng số 9423848 ngày 23/9/2016; Hợp đồng thấu chi số LD1712500592 và Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng.
2. Xác nhận tính đến ngày 24/02/2022, bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng Mcòn nợ Ngân hàng TMCP Việt Nam T số tiền nợ gốc 854.200.590 đồng; nợ lãi: 762.093.508 đồng.
Buộc bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M phải trả Ngân hàng TMCP Việt Nam Ttổng số tiền 1.616.294.098 đồng.
Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Việt Nam T về việc buộc bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M phải trả Ngân hàng số tiền phạt chậm trả.
3. Buộc bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M tiếp tục trả tiền lãi từ ngày 25/02/2022 của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khoản nợ trên thì Ngân hàng TMCP Việt Nam Tcó quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án kê biên, phát mại xử lý tài sản thế chấp là là căn hộ chung cư số 206 B7 Khu tập thể quân đội, phường Thanh X Bắc, quận Thanh X, Hà Nội; theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 2899/201, quyển số 03-2016 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 23/9/2016 để thu hồi nợ.
Khi có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc các tổ chức, cá nhân hiện đang chiếm hữu, sử dụng tại căn hộ chung cư số 206 B7 Khu tập thể quân đội, phường Thanh X Bắc, quận Thanh X, Hà Nội phải di dời khỏi nhà đất nêu trên để đảm bảo việc thi hành án.
Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Không đồng ý, bà Nguyễn Thị Diệu A, ông Nguyễn Hoàng M và bà Nguyễn Mai A kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm. Đơn kháng cáo của bà Diệu A, ông Minh và bà Mai A có nội dung chính: Toà án nhân dân quận Đống Đa đã xét xử và ra Bản án dân sự sơ thẩm không có sự tham gia của ông bà là không đúng pháp luật, xâm hại nghiêm trọng đến quyền lợi của ông bà. Ông bà đề nghị Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại toàn bộ vụ án một cách khách quan, toàn diện, đúng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của ông bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đương sự giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo, không xuất trình chứng cứ mới.
Ông Phạm Văn T là đại diện theo uỷ quyền của bà Mai A có ý kiến: Toà án cấp sơ thẩm chưa đưa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Lê Thế H vào tham gia vụ án; chưa tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự dẫn đến các bên không được tham gia; chưa tạo điều kiện cho các bên hoà giải một cách tốt nhất. Những thiếu sót trên của Toà án cấp sơ thẩm không thể khắc phục được, ông Tiến đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án dân sự sơ thẩm Tham gia phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm:
Về tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung, sau khi phân tích đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ Bản án dân sự sơ thẩm do bị đơn không nhận được Quyết định hoãn phiên toà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
Về tố tụng, bà Nguyễn Thị Diệu A, ông Nguyễn Hoàng M và bà Nguyễn Mai A nộp đơn kháng cáo quá hạn được Toà án nhân dân thành phố Hà Nội chấp nhận bằng Quyết định chấp nhận kháng cáo quá hạn số 272/2022/QĐ-PT ngày 20/7/2022; bà Diệu A, ông Minh, bà Mai A đã nộp tiền tạm ứng án phí trong hạn luật định là hợp lệ.
Ngày 30/12/2020, bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M uỷ quyền bằng văn bản cho bà Nguyễn Mai A. Quá trình tố tụng, Toà án nhân dân quận Đống Đa thông qua Thừa phát lại Hoàn Kiếm đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng trong đó có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên toà cho người nhận là bà Nguyễn Mai A (bà Phạm Thị Xuyến là mẹ đẻ của bà Mai A ở cùng địa chỉ nhận thay). Việc Toà án nhân dân quận Đống Đa xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Diệu A, ông Nguyễn Hoàng M và bà Nguyễn Mai A là phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại Thông báo số 788/TB- TA ngày 31/3/2021 của Toà án nhân dân quận Đống Đa về việc đưa ông Lê Thế H, bà Nguyễn Thị T, anh Lê Thanh X và anh Lê Đức A (hiện đang tạm trú tại căn hộ thế chấp là chung cư số 206 B7 Khu tập thể quân đội) tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Ngoài việc tống đạt Thông báo trên, Toà án nhân dân quận Đống Đa còn tống đạt các văn bản yêu cầu nộp bản tự khai, giao nộp chứng cứ nhưng ông Lê Thế H, bà Nguyễn Thị T, anh Lê Thanh X và anh Lê Đức A không thực hiện.
Về nội dung, xét yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Diệu A, ông Nguyễn Hoàng M và bà Nguyễn Mai A, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Ngân hàng TMCP Việt Nam T và bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M đã ký Hợp đồng tín dụng số 9423848 vào ngày 23/09/2016. Các bên xác nhận việc giao kết hợp đồng tín dụng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, lừa dối, đe dọa, nhầm lẫn và các bên cam kết tuân thủ và thực hiện đúng các thỏa thuận trong hợp đồng.
Sau khi ký Hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ, hợp đồng thế chấp; Ngân hàng TMCP Việt Nam T đã giải ngân cho bà Diệu A và ông Minh số tiền 839.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 9423848 và Khế ước nhận nợ ngày 26/9/2016; 131.000.000 đồng theo Hợp đồng thấu chi số LD1712500592 ngày 19/4/2017; 93.780.261 đồng theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số 118-P-435511.
Về số tiền nợ gốc:
Ông Minh và bà Diệu A đã thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền: 368.242.214 đồng; trong đó:
- Hợp đồng tín dụng số 9423848: Số tiền gốc 146.824.986 đồng; tiền lãi 151.811.344 đồng.
- Hợp đồng thấu chi số LD1712500592: Số tiền gốc 37.651.970 đồng; tiền lãi 31.953.914 đồng.
- Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng: 28.413.795 đồng.
Quá trình thực hiện hợp đồng, bà Diệu A, ông Minh đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ đối với VPBank kể từ ngày 26/7/2018. VPBank đã nhiều lần đôn đốc nhưng bà Diệu A, ông Minh không thanh toán. Hiện tại, bà Diệu A và ông Minh còn nợ VPBank số tiền gốc: 854.200.590 đồng. Bản án dân sự sơ thẩm buộc bà Diệu A và ông Minh phải có trách nhiệm trả VPBank số tiền nợ gốc nêu trên là đúng pháp luật.
Về số tiền nợ lãi, lãi phạt:
Theo các hợp đồng tín dụng đã ký giữa Ngân hàng TMCP Việt Nam T và bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M, các bên thỏa thuận lãi suất cho vay như sau:
Hợp đồng tín dụng số 9423848: Lãi suất cho vay 9,9%/năm trong 12 tháng kể từ ngày giải ngân lần đầu. Sau đó lãi suất cho vay sẽ được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần, mức điều chỉnh bằng: Lãi suất tiết kiệm VND kỳ hạn 24 tháng trả lãi sau bậc thang cao nhất của ngân hàng đang áp dụng tại thời điểm điều chỉnh cộng (+) biên độ 5%/năm. Lãi suất quá hạn: bằng 150% mức lãi suất trong hạn, kể từ thời điểm phát sinh nợ quá hạn.
Hợp đồng thấu chi số LD1712500592: Lãi suất cho vay trong hạn và cơ chế điều chỉnh lãi suất thực hiện theo phê duyệt cho vay của VPBank .
Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng: Lãi suất thông thường 33%/năm.
Xem xét thỏa thuận về mức lãi suất VPBank áp dụng đối với bà Diệu A và ông Minh tại Hợp đồng tín dụng là sự tự nguyện thỏa thuận của các bên; phù hợp Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/1/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phù hợp với các Quyết định điều chỉnh mức lãi suất tiết kiệm của VPBank ; Điều 280, 281, 357, 418, 466, 468 Bộ luật dân sự; phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Bản án dân sự sơ thẩm buộc bà Diệu A và ông Minh phải trả có trách nhiệm thanh toán tổng số tiền nợ lãi chưa trả tính đến ngày 24/02/2022 là 762.093.508 đồng là phù hợp với thoả thuận của các bên, phù hợp với quy định của pháp luật.
Về hợp đồng thế chấp:
Để đảm bảo khoản tiền vay, bà Diệu A và bà Mai A đồng ý thế chấp tài sản thuộc đồng sở hữu của bà Mai A và Diệu A là căn hộ chung cư số 206 B7 Khu tập thể quân đội, phường Thanh X Bắc, quận Thanh X, Hà Nội.
Theo nội dung Hợp đồng thế chấp số công chứng 2899/2016, quyển số 03-2016 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 23/9/2016 tại Văn phòng Công chứng Đông Đô, được ký giữa bà Nguyễn Thị Diệu A và bà Nguyễn Mai A với VPBank ,thể hiện: Hợp đồng được giao kết trên sự tự nguyện thỏa thuận của các bên; mục đích, nội dung của Hợp đồng không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Hợp đồng được công chứng viên công chứng theo đúng quy định của pháp luật. Hợp đồng thế chấp được đăng ký tại Văn phòng Đăng ký đất đai chi nhánh Thanh X ngày 26/9/2016.
Như đã trích dẫn và phân tích trên, khi xét xử vụ án, Toà án nhân dân quận Đống Đa đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bản án dân sự sơ thẩm đã căn cứ và áp dụng đúng các quy định của pháp luật hiện hành để xét xử vụ kiện, kháng cáo của bà Nguyễn Thị Diệu A, ông Nguyễn Hoàng M và bà Nguyễn Mai A không có căn cứ, không được chấp nhận; cần giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.
Án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Diệu A, ông Nguyễn Hoàng M và bà Nguyễn Mai A phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 26, 30, 35, 39, 147,148, 227, 228, 271, 273, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 116, 117, 118, 119, 280, 281,298, 317, 318, 319, 320, 357, 418, 466 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 91, 95 của Luật các tổ chức tín dụng; Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về “Giao dịch bảo đảm”; Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 163/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/1/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngµy 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Toà án; Luật thi hành án dân sự.
Xử:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Diệu A, ông Nguyễn Hoàng M và bà Nguyễn Mai A .
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 24 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, cụ thể như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Việt Nam T đối với bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo các Hợp đồng tín dụng số 9423848 ngày 23/9/2016; Hợp đồng thấu chi số LD1712500592 và Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng.
2. Buộc bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M phải trả Ngân hàng TMCP Việt Nam T số tiền tính đến ngày 24/02/2022 là 1.616.294.098đ (một tỷ sáu trăm mười sáu triệu hai trăm chín tư nghìn không trăm chín tám đồng);
trong đó: Nợ gốc 854.200.590 đồng; Nợ lãi: 762.093.508 đồng.
3. Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Việt Nam T về việc buộc bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M phải trả Ngân hàng số tiền phạt chậm trả.
4. Buộc bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M tiếp tục trả tiền lãi từ ngày 25/02/2022 của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
5. Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khoản nợ trên thì Ngân hàng TMCP Việt Nam T có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án kê biên, phát mại xử lý tài sản thế chấp là Căn hộ chung cư số 206 B7 Khu tập thể quân đội, phường Thanh X Bắc, quận Thanh X, Hà Nội; theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 2899/2016, quyển số 03-2016 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 23/9/2016 tại Văn phòng Công chứng Đông Đô để thu hồi nợ.
Khi có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc các tổ chức, cá nhân hiện đang chiếm hữu, sử dụng tại căn hộ chung cư số 206 B7 Khu tập thể quân đội, phường Thanh X Bắc, quận Thanh X, Hà Nội phải di dời khỏi nhà đất nêu trên để đảm bảo việc thi hành án.
6. Quyền, nghĩa vụ khi thi hành án dân sự:
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
7. Về án phí:
* Án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Diệu A và ông Nguyễn Hoàng M phải chịu 60.488.822đ (sáu mươi triệu bốn trăm tám mươi tám nghìn tám trăm hai mươi hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả Ngân hàng TMCP Việt Nam T số tiền tạm ứng án phí đã nộp 26.796.000đ (hai mươi sáu triệu bẩy trăm chín sáu nghìn đồng) theo Biên lai thu số 015261 ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa.
* Án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Diệu A, ông Nguyễn Hoàng M và bà Nguyễn Mai A mỗi người phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 070654, số 070655, số 070653 ngày 26/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Đống Đa.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 24/2023/DS-PT
Số hiệu: | 24/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về