Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 215/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 215/2021/DS-ST NGÀY 16/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 16 tháng 11 năm 2021, tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 50/2021/TLST-DS ngày 29 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2021/QĐXXST- DS ngày 18 tháng 10 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S; có trụ sở tại: Đường N, Phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngưi đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D; chức vụ: Tổng Giám đốc.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C; địa chỉ: Đường Q, Phường N, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Văn bản ủy quyền lập ngày 18/01/2021 và ngày 28/04/2021) (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1998; Địa chỉ: Đường Q, Phường M, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S và các lời khai tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Năm 2019, theo yêu cầu của Bà Nguyễn Thị Kim C, có nơi cư trú tại số nhà 608 đường Quang Trung, Phường 11, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, Ngân hàng Thương mại Cổ phần S (Sau đây viết tắt là Ngân hàng) cấp cho bà C thẻ tín dụng VS payWave Cre Gold số thẻ 472075-4408, số tài khoản thẻ 3275155327 theo giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 14/7/2019 (Sau đây viết tắt là hợp đồng), với hạn mức sử dụng là 50.000.000 đồng, lãi suất là 31,2%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất vay trong hạn, mục đích tiêu dùng cá nhân.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà C đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 53.112.126 đồng và đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 8.196.000 đồng (bao gồm các khoản phí, nợ gốc và nợ lãi). Do bà C không thanh toán số dư nợ tín dụng còn lại cho Ngân hàng nên kể từ ngày 12/10/2020, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của Bà Nguyễn Thị Kim C và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Ngân hàng đã nhiều lần có văn bản đề nghị bà C thanh toán số tiền trên nhưng bà C cố tình trốn tránh, không thanh toán. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà C phải thanh toán số tiền còn thiếu tạm tính đến ngày 26/4/2021 là 74.035.637 đồng (trong đó: nợ gốc là 48.707.637 đồng, nợ lãi quá hạn là 25.323.000 đồng), trả làm một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, kể từ ngày 27/4/2021 bà C còn phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất nợ quá hạn thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký kết với Ngân hàng cho đến khi thanh toán xong nợ.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng và giấy triệu tập của Tòa án cho bị đơn là Bà Nguyễn Thị Kim C tại địa chỉ đường Q, Phường M, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng bà C không đến Tòa trong các buổi triệu tập làm việc và vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bà C, không thu thập được tài liệu, chứng cứ từ phía bà C và không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa:

Đại diện nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn Bà Nguyễn Thị Kim C đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp. Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về xác định quan hệ tranh chấp, tư cách tố tụng, thu thập chứng cứ, thủ tục phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cũng như việc gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử vụ án.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70 và 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70 và 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp có căn cứ xác định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở. Căn cứ Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S khởi kiện yêu cầu Bà Nguyễn Thị Kim C trả khoản nợ vay theo hợp đồng tín dụng đã ký kết với ngân hàng, đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về hợp đồng tín dụng. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và kết quả xác minh của Công an Phường M, Quận G, TP. Hồ Chí Minh thì Bà Nguyễn Thị Kim C đã chuyển đi khỏi địa chỉ đường Q, Phường M, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 6/2020 và không rõ địa chỉ nơi đến. Như vậy, nguyên đơn đã ghi đúng địa chỉ của bà C trong đơn khởi kiện theo địa chỉ do bà C cung cấp khi giao kết hợp đồng. Bà C thay đổi nơi cư trú nhưng không báo cho Ngân hàng biết địa chỉ nơi cư trú mới, được coi là cố tình giấu địa chỉ theo hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở xác định địa chỉ của bị đơn tại quận Gò Vấp. Vì vậy, căn cứ quy định tại các điều 26, 35 và 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Đại diện nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn là Bà Nguyễn Thị Kim C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Ngân hàng Thương mại Cổ phần S cung cấp gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 17/4/2019 có bút tích và chữ ký của Bà Nguyễn Thị Kim C cũng như đối chiếu các văn bản, tài liệu khác, Hội đồng xét xử xét có cơ sở xác định giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần S với Bà Nguyễn Thị Kim C có giao kết hợp đồng như phía Ngân hàng trình bày.

Xét tại thời điểm giao kết, nội dung thoả thuận của các bên trong các hợp đồng nêu trên về khoản tiền vay, lãi suất phù hợp với quy định tại các điều 463 và 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và thỏa thuận lãi suất, phí phù hợp với quy định tại Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 là “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” nên đã làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng.

Do bà C vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng Thương mại Cổ phần S khởi kiện yêu cầu bà C phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán là phù hợp với quy định tại Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Bà C không đến Tòa án, không có lời khai, không cung cấp chứng cứ để xác nhận hoặc phản bác yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, bà C đã từ bỏ các quyền được pháp luật quy định. Theo Khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Hội đồng xét xử căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ kiện do Ngân hàng Thương mại Cổ phần S cung cấp để xác định Bà Nguyễn Thị Kim C đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng tín dụng đã ký kết; yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Vì vậy, cần buộc Bà Nguyễn Thị Kim C phải có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng ngày 14/7/2019 (thẻ tín dụng VS payWave Cre Gold số thẻ 472075-4408, số tài khoản thẻ 3275155327) là 48.707.637 đồng và tiền lãi quá hạn tạm tính đến ngày 26/4/2021 là 25.323.000 đồng. Tổng cộng cả gốc và lãi là 74.035.637đ (Bảy mươi bốn triệu không trăm ba mươi lăm nghìn sáu trăm ba mươi bảy đồng), trả làm một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày 27/4/2021 bà C còn phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất nợ quá hạn thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

[4] Xét ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là có cơ sở nên ghi nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Căn cứ quy định của Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu tiền án phí trên phần nghĩa vụ phải thực hiện đối với nguyên đơn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

1. Buộc Bà Nguyễn Thị Kim C có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền nợ của thẻ tín dụng VS payWave Cre Gold, số thẻ 472075-4408, số tài khoản thẻ 3275155327, theo giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 14/7/2019 là 74.035.637đ (Bảy mươi bốn triệu không trăm ba mươi lăm nghìn sáu trăm ba mươi bảy đồng) (trong đó: nợ gốc là 48.707.637 đồng, nợ lãi quá hạn tạm tính đến ngày 26/4/2021 là 25.323.000 đồng), trả làm một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày 27/4/2021 bà C còn phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất nợ quá hạn thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Nguyễn Thị Kim C phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 3.701.800đ (Ba triệu bảy trăm lẻ một nghìn tám trăm đồng).

- Ngân hàng Thương mại Cổ phần S được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.534.291đ (Một triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn hai trăm chín mươi mốt đồng) theo biên lai thu số AA/2019/0027916 ngày 29/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

3. Về quyền kháng cáo: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S và Bà Nguyễn Thị Kim C có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 215/2021/DS-ST

Số hiệu:215/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về