Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 17/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN AN, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 17/2024/DS-ST NGÀY 12/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 12 tháng 03 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 394/2023/TLST-DS ngày 22 tháng 11 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2024/QĐXXST-DS ngày 31/01/2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 19/2024/QĐST-DS ngày 20/02/2024, giữa các đương sự:

1/Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Q (N);

Địa chỉ: số B đường L, Phường L, Quận H, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Bùi Thị Thanh H, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần Q.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Hoàng V, chức vụ: chuyên viên xử lý nợ - TT xử lý nợ. Địa chỉ: A- 12B7 đường N, phường G, thành phố M, tỉnh Tiền Giang, theo giấy ủy quyền số 6164C/2023/UQ-NCB ngày 08/9/2023, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2/ Bị đơn:

2.1. Bà Nguyễn Thị Hồng Â, sinh năm 1980, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;

Địa chỉ: số C đường L, khu phố N, phường E, thành phố T, tỉnh Long An.

2.2. Ông Dương Hữu T, sinh năm 1981, vắng mặt;

Địa chỉ: số B Quốc lộ F, khu phố X, phường F, thành phố T, tỉnh Long An.

Địa chỉ liên lạc: số C đường L, khu phố N, phường E, thành phố T, tỉnh Long An.

3/Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1956, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;

Địa chỉ: số C đường L, khu phố N, phường E, thành phố T, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/09/2023 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Q do ông Trần Hoàng V đại diện trình bày:

Bà Nguyễn Thị Hồng Â, ông Dương Hữu T cùng với Ngân hàng thương mại cổ phần Q - Chi nhánh L (gọi tắt là Ngân hàng) đã ký kết hợp đồng cho vay và khế ước nhận nợ, cụ thể như sau:

Hợp đồng cho vay số 070/22/HĐCV-9377 ngày 04/5/2022 và khế ước nhận nợ số 01/KUNN/070/22/HĐCV-9377 ngày 05/5/2022: số tiền vay 300.000.000đ, mục đích vay thanh toán tiền mua hàng. Ngày nhận nợ: 05/5/2022. Thời hạn vay: 84 tháng, kể từ ngày tiếp theo ngày giải ngân. Lãi suất kỳ đầu tiên: lãi suất vay kể từ ngày giải ngân lần đầu tiên đến ngày 05/8/2022 là 13,0%/năm. Lãi suất kỳ tiếp theo: lãi suất áp dụng đối với các khoản vay của khách hàng được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần theo công thức lãi suất vay bằng lãi suất cơ sở + 4,6%/năm; Lãi suất quá hạn: bằng 150% lãi suất trong hạn. Lịch trả nợ gốc: 01 tháng/kỳ, trong vòng 84 tháng, lần trả nợ gốc đầu tiên sau 01 tháng kể từ ngày giải ngân đầu tiên và trả nợ gốc kỳ đầu tiên vào ngày 25/5/2022 với số tiền là 3.570.000đ, kỳ thứ 02 đến kỳ 83 ngày 25 hàng tháng với số tiền 3.570.000đ, kỳ 84 (kỳ trả nợ cuối cùng) ngày 05/5/2029 với số tiền 3.690.000đ. Kỳ hạn trả lãi: 01 tháng, tính từ ngày trả lãi vay đầu tiên là ngày 25/5/2022, các ngày trả lãi vay tiếp theo: ngày 25 hàng tháng, ngày trả lãi vay cuối cùng là ngày kết thúc thời hạn vay.

Ngày 05/5/2022, Ngân hàng đã giải ngân và bà Nguyễn Thị Hồng Â, ông Dương Hữu T đã nhận nợ toàn bộ số tiền nêu trên theo Khế ước nhận nợ số 01 /KUNN/070/22/HĐCV-9377 ngày 05/05/2022.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay: Để đảm bảo cho khoản vay trên, bà Â và ông T đã thế chấp tài sản bảo đảm như sau:

Tài sản 1: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 126; tờ bản đồ số 41; diện tích: 624,2m2; địa chỉ: phường E, thành phố T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất do UBND thành phố T, tỉnh Long An cấp ngày 28/10/2021 cho ông Nguyễn Văn T1; mục đích sử dụng: đất trồng cây lâu năm. Tài sản bảo đảm cho khoản vay trên theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 070-1/22/HDTC- 9377 ngày 04/05/2022, số công chứng 4.773, quyền số 05/2022TP/CC SCC/HĐGD ngày 04/05/2022 ký tại Văn phòng C, đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thành phố T, tỉnh Long An ngày 04/05/2022.

Tài sản 2: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 348; tờ bản đồ số 3; diện tích 767 m2; địa chỉ: phường E, thị xã T (nay là thành phố T), tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND thị xã T (nay là thành phố T), tỉnh Long An cấp ngày 22/05/2003 cho ông Nguyễn Văn T1; mục đích sử dụng: đất thổ. Tài sản bảo đảm cho khoản vay trên theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 070-2/22/HDTC-9377 ngày 04/05/2022, số công chứng 4.772, quyển số 05/2022TP/CC SCC/HĐGD ngày 04/05/2022, ký tại Văn phòng C, đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thành phố T, tỉnh Long An ngày 04/05/2022 và văn bản thỏa thuận tài sản gắn liền với đất ngày 04/05/2022.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà Nguyễn Thị Hồng Â, ông Dương Hữu T đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền tổng cộng là: 47.116.537đ, trong đó: tiền gốc 24.990.000đ, tiền lãi 22.126.537đ và không tiếp tục thực hiện trả nợ theo cam kết. Ngân hàng đã nhiều lần gửi thông báo, làm việc trực tiếp yêu cầu trả nợ, bàn giao tài sản bảo đảm theo đúng quy định nhưng bà Nguyễn Thị Hồng Â, ông Dương Hữu T không thực hiện theo yêu cầu.

Nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết:

Buộc bà Nguyễn Thị Hồng Â, ông Dương Hữu T thanh toán cho Ngân hàng N số tiền nợ gốc là 275.010.000đ và nợ lãi là 60.788.216đ, tổng cộng nợ gốc và nợ lãi là 335.798.216đ.

Buộc bà Nguyễn Thị Hồng Â, ông Dương Hữu T tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng N số tiền lãi phát sinh từ ngày 13/03/2024 cho đến khi trả hết nợ theo lãi suất được các bên thỏa thuận trong các hợp đồng vay, cùng khế ước nhận nợ đã ký.

Trường hợp bà Nguyễn Thị Hồng Â, ông Dương Hữu T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên, xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.

Trường hợp số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ thanh toán khoản nợ thì bà Â và ông T vẫn phải có nghĩa vụ trả hết khoản nợ cho ngân hàng.

* Bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng  trình bày:

Ngày 04/5/2022 bà và ông Dương Hữu T có ký hợp đồng cho vay với Ngân hàng TMCP Q để vay số tiền 300.000.000đ, mục đích vay: tiêu dùng, thời hạn vay 84 tháng, lãi suất kỳ đầu tiên giải ngân đến 05/8/2022 là 13%/năm, lãi suất kỳ tiếp theo được điều chỉnh định kỳ 3 tháng/1 lần. Tài sản đảm bảo cho khoản vay trên là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 126, TBĐ số 41 diện tích 624,2m2 và thửa đất số 348, TBĐ số 3, diện tích 767m2, cùng tọa lạc tại phường E, thành phố T, tỉnh Long An, do ông Nguyễn Văn T1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo cho hợp đồng cho vay số 070/22/HĐCV-9377 ngày 04/5/2022.

Đối với số tiền vay 300.000.000đ, vợ chồng bà có ký tên trong giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ ngày 05/5/2022 do đó vợ chồng bà đồng ý chịu trách nhiệm trả nợ gốc, lãi phát sinh và đồng ý tiếp tục hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án.

* Bị đơn Ông Dương Hữu T vắng mặt không có lời trình bày trong quá trình tố tụng.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T1 trình bày:

Ông T1 là cha của Nguyễn Thị Hồng Â. Do ông T1 cần số tiền vốn để làm ăn nên có nhờ con tên Nguyễn Thị Hồng  và con rể tên Dương Hữu T đứng tên ký hợp đồng cho vay với Ngân hàng N để vay số tiền 300.000.000đ, thời hạn vay 84 tháng, mục đích vay: vay tiêu dùng, lãi suất vay: lãi suất kỳ đầu tiên: LSV kể từ ngày giải ngân lần đầu tiên đến ngày 05/8/2022 là 13,0%/năm, lãi suất kỳ tiếp theo được điều chỉnh định kỳ 3 tháng/1 lần, lãi suất quá hạn: bằng 150% lãi suất trong hạn. Phương thức thanh toán: gốc và lãi trả dần hàng tháng. Từ khi vay chỉ trả được vài kỳ gốc, lãi và quá hạn cho đến nay.

Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Â và ông T thanh toán nợ gốc và nợ lãi cho ngân hàng, trường hợp bà Â và ông T không trả được nợ thì ông T1 là người đứng tên quyền sử dụng đất và ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất với ngân hàng, ông T1 đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 070-1/22/HDTC-9377 ngày 04/05/2022 và hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 070-2/22/HDTC-9377 ngày 04/05/2022 đối với thửa đất số 126 và 348 do ông T1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án.

Đối với tài sản gắn liền trên đất:

Thửa đất số 348, một phần thửa có một căn nhà cấp 4, kết cấu móng cột BTCT, tường xây gạch, mái tole priro xi măng, nền gạch ceramic, trần có đóng la phông và một phần thửa còn lại có một số cây trồng không có giá trị kinh tế. Thửa đất số 126, trên đất có trồng 15 cây dừa. Ông T1 tự nguyện đưa toàn bộ tài sản gắn liền trên đất để bảo đảm thi hành án.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát biểu:

- Ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng:

Thẩm phán tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử Thẩm phán chấp hành đúng theo quy định Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đều tuân theo quy định pháp luật tố tụng. Ngân hàng, bà Â và ông T1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và ông T vắng mặt không có lý do nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử là phù hợp theo Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do Ngân hàng TMCP Q xuất trình là hợp đồng cho vay số 070/22/HĐCV-9377 ngày 04/5/2022 và khế ước nhận nợ số 01/KUNN/070/22/HDCV-9377 ngày 05/5/2022 có chữ ký của ông T, bà Â. Xét thấy, ông T, bà Â đã vi phạm kỳ hạn trả nợ, phương thức trả nợ theo quy định tại Điều 3, 6 hợp đồng vay, mục 8 của khế ước nhận nợ với Ngân hàng TMCP Q. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, bà Â cũng thống nhất với trình bày từ phía ngân hàng, ông T vắng mặt không có lý do. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T nhưng ông T vẫn không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, không có lời khai thể hiện ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Q. Đây là được xem như tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 BLTTDS là một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh. Do đó, Ngân hàng TMCP Q khởi kiện yêu cầu ông T, bà Â trả tiền gốc và lãi đến ngày 30/01/2024 tổng cộng là 335.798.216 đồng (Nợ gốc: 275.010.000 đồng và lãi 60.788.216 đồng) là có căn cứ chấp nhận. Do vậy, căn cứ vào các Điều 463, 466 BLDS, Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng cần buộc ông T, bà Â phải trả cho Ngân hàng TMCP Q tiền gốc và lãi đến ngày 30/01/2024 tổng cộng là 335.798.216 đồng.

Về tài sản bảo đảm: Tiếp tục thực hiện Hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng đất số 070-1/22/HDTC-9377, Hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng đất số 070- 2/22/HDTC-9377 cùng ngày 04/05/2022. Tài sản thế chấp là Thửa đất số 126; tờ bản đồ số 41; diện tích: 624,2m2, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số C 138741 do UBND thành phố T, tỉnh Long An cấp ngày 28/10/2021 và thửa đất số 348; Tờ bản đồ số 3; Diện tích 767 m2; theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 514132; do UBND thị xã T, tỉnh Long An cấp ngày 22/5/2003 cho ông Nguyễn Văn T1.

Đề xuất: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Q. Ông T, bà Â phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

1.1. Về thẩm quyền: Ngân hàng N có đơn khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Hồng  và ông Dương Hữu T thanh toán số tiền nợ gốc, nợ lãi theo hợp đồng cho vay đã ký kết, làm phát sinh vụ án tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An theo quy định tại các Điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự, do đó Tòa án nhân dân thành phố Tân An thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.

1.2. Về xét xử vắng mặt đương sự:

Đối với đại diện nguyên đơn ông Trần Hoàng V, bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng  và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Đối với bị đơn ông Dương Hữu T, Tòa án nhân dân thành phố Tân An, Long An đã tiến hành đầy đủ các thủ tục niêm yết, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định pháp luật cho ông T nhưng ông T vẫn vắng mặt.

Do đó, việc Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An đưa vụ án ra xét xử vắng mặt đối với họ là phù hợp với các Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

2.1. Về số nợ:

Xét yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Q về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Hồng  và ông Dương Hữu T thanh toán số tiền nợ gốc 275.010.000đ theo hợp đồng cho vay số 070/22/HĐCV-9377 ngày 04/5/2022 và giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 01/KUNN/070/22/HĐCV-9377 ngày 05/5/2022, Hội đồng xét xử nhận thấy: bà Nguyễn Thị Hồng  và ông Dương Hữu T là người trực tiếp ký tên trong hợp đồng cho vay đề vay tiền của Ngân hàng thương mại cổ phần Q - Chi nhánh L, trên hợp đồng cho vay, giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ đều do bà  và ông T ký tên và đã quá hạn thanh toán nên yêu cầu này của Ngân hàng là phù hợp với quy định tại Điều 463, 466 Bộ luật dân sự nên có căn cứ chấp nhận.

2.2. Về tiền lãi: Ngân hàng yêu cầu bà Â và ông T thanh toán số tiền lãi phát sinh thỏa thuận tại hợp đồng cho vay, Hội đồng xét xử nhận thấy: việc tính lãi và cả lãi nợ quá hạn đối với các khoản vay của tổ chức tín dụng, ngân hàng phải theo đúng hợp đồng đã ký kết. Xét, yêu cầu tính lãi của Ngân hàng là phù hợp. Vì vậy, cần chấp nhận theo yêu cầu tính lãi của Ngân hàng gồm lãi trong hạn và lãi quá hạn tính đến ngày 12/03/2024 là 60.788.216đ. Bà Â và ông T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

2.3. Về các hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất:

Xét Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 070-1/22/HĐTC-9377 và số 070-2/22/HDTC-9377 cùng ngày 04/5/2022, HĐXX thấy rằng:

Để bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng cho vay số 070/22/HĐCV-9377 ngày 04/5/2022 của bà Â và ông T đối với Ngân hàng. Ngày 04/5/2022 ông Nguyễn Văn T1 đã thế chấp quyền sử dụng đất tại thửa đất số 126, tờ bản đồ số 41, diện tích 624,2m2, loại đất trồng cây lâu năm, vị trí đất tại phường E, thành phố T, tỉnh Long An theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 070-1/22/HĐTC-9377 ngày 04/5/2022, số công chứng 4.773, quyển số 05/2022TP/CC-SCC/HĐGD ký tại Văn phòng C và cùng ngày 04/5/2022 ông Nguyễn Văn T1 đã thế chấp quyền sử dụng đất tại thửa đất số 348, tờ bản đồ số 3, diện tích 767m2, loại đất thổ, vị trí đất tại phường E, thành phố T, tỉnh Long An theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 070-2/22/HĐTC-9377 ngày 04/5/2022, số công chứng 4.772, quyển số 05/2022TP/CC-SCC/HDGD ký tại Văn phòng C. Hai hợp đồng thế chấp này được công chứng và đăng ký thế chấp theo đúng quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 28/12/2023 Tòa án đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, hiện trạng:

Thửa đất số 348: một phần thửa có 01 căn nhà cấp 4, kết cấu móng cột BTCT, tường xây gạch, mái tole priro xi măng, nền gạch ceramic, trần có đóng la phong và một phần thửa còn lại có một số cây trồng không có giá trị kinh tế. Thửa đất số 126: trên đất có trồng 15 cây dừa. Hai quyền sử dụng đất đều do ông T1 đứng tên và đang quản lý sử dụng. Đối với nhà ở cất trên một phần thửa đất số 348, tài sản này được xây cất trước khi ký kết hợp đồng thế chấp, do tại thời điểm ký kết hợp đồng thế chấp, căn nhà chưa được đăng ký quyền sở hữu nên các bên đã tiến hành lập biên bản thỏa thuận giá trị tài sản và hiện trạng tài sản: trên đất có công trình xây dựng. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T1 là chủ quyền sử dụng đất và cũng là chủ tài sản gắn liền với đất thống nhất, trường hợp bà Â và ông T không trả được nợ thì ông T1 tự nguyện đưa toàn bộ tài sản gắn liền trên đất đề bảo đảm thi hành án. Do đó, yêu cầu của Ngân hàng tiếp tục thực hiện hợp đồng thế chấp đề đảm bảo thu hồi nợ là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 317, 318 của Bộ luật Dân sự nên chấp nhận.

2.4. Về cách thức trả nợ: Để đảm bảo quyền lợi cho Ngân hàng NCB cần buộc bà Â và ông T thanh toán số tiền nợ gốc và nợ lãi cho Ngân hàng NCB ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

[3] Án phí, chi phí tố tụng:

3.1. Về án phí:

Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thương vụ Quốc Hội. Do đó bà Nguyễn Thị Hồng  và ông Dương Hữu T phải chịu án phí do phải trả nợ theo quy định với mức thu là 16.789.900đ.

Ngân hàng TMCP Q được nhận lại số tiền 7.767.160đ theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001205 ngày 22/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An, tỉnh Long An.

3.2. Về chi phí tố tụng:

Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 5.000.000đ (năm triệu đồng), bà Â và ông T phải chịu, bà Â và ông T có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Q1 tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng).

[4] Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa về thủ tục tố tụng và nội dung vụ án là có căn cứ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 228, 238, 266, 267, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Áp dụng Điều 317, 318, 463, 466 Bộ luật Dân sự;

Áp dụng Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;

Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Q về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” với bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng  và ông Dương Hữu T.

1.1. Buộc bà Nguyễn Thị Hồng  và ông Dương Hữu T có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Q1 tiền nợ gốc 275.010.000đ (hai trăm bảy mươi lăm triệu không trăm mười nghìn đồng), tiền lãi trong hạn 46.702.616đ (bốn mươi sáu triệu bảy trăm lẻ hai nghìn sáu trăm mười sáu đồng), tiền lãi quá hạn 14.085.600đ (mười bốn triệu không trăm tám mươi lăm nghìn sáu trăm đồng), tổng cộng tiền gốc và tiền lãi là 335.798.216đ (ba trăm ba mươi lăm triệu bảy trăm chín mươi tám nghìn hai trăm mười sáu đồng), ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2. Tiếp tục thực hiện Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 070-1/22/HĐTC-9377 ngày 04/5/2022, số công chứng 4.773, quyển số 05/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 04/05/2022 ký tại Văn phòng công chứng Phạm Thị H1 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 070-2/22/HĐTC-9377 ngày 04/5/2022, số công chứng 4.772, quyển số 05/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 04/05/2022 ký tại Văn phòng C giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Q - Chi nhánh L với ông Nguyễn Văn T1, được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thành phố T, tỉnh Long An vào ngày 04/05/2022 để bảo đảm thi hành án.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn T1 là đưa toàn bộ tài sản gắn liền trên đất là 01 căn nhà cấp 4, kết cấu móng cột BTCT, tường xây gạch, mái tole priro xi măng, nền gạch ceramic, trần có đóng la phong thuộc một phần thửa 348 và toàn bộ tài sản khác gắn liền trên đất thuộc thửa đất số 126, 348 để bảo đảm thi hành án.

Trong trường hợp bà Nguyễn Thị Hồng  và ông Dương Hữu T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ thì Ngân hàng thương mại cổ phần Q có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để đảm bảo cho Ngân hàng thu hồi nợ.

Nếu số tiền thu được từ việc bán, xử lý tài sản bảo đảm không đủ thanh toán hết khoản nợ thì bà Â và ông T phải có trách nhiệm tiếp tục trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Q.

2. Về án phí, chi phí tố tụng:

2.1. Về án phí:

Bà Nguyễn Thị Hồng  và ông Dương Hữu T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với mức thu là 16.789.900đ (mười sáu triệu bảy trăm tám mươi chín nghìn chín trăm đồng).

Ngân hàng TMCP Q được nhận lại số tiền 7.767.160đ (bảy triệu bảy trăm sáu mươi bảy nghìn một trăm sáu mươi đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001205 ngày 22/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An, tỉnh Long An.

2.2. Về chi phí tố tụng:

Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 5.000.000đ (năm triệu đồng), bà Â và ông T có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Q1 tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng).

3. Về nghĩa vụ chậm thi hành án:

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

4. Về thời hiệu thi hành án:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 17/2024/DS-ST

Số hiệu:17/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về