Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 157/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AN NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 157/2023/DS-ST NGÀY 06/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 06 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý: 66/2023/TLST-DS ngày 19 tháng 01 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1780/2023/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 10 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 1906/QĐST-DS ngày 15 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Đ; địa chỉ: số A P, Phường C, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Quang T, chức vụ: Nhân viên Phát triển kinh doanh - Ngân hàng thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh B - Phòng G, theo giấy ủy quyền số 10/QĐ-PT1 lập ngày 09/8/2022, vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

* Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim L sinh năm 1979; trú tại: Khu V, phường N, thị xã A, tỉnh Bình Định, vắng mặt;

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phan Thanh S sinh năm 1980; trú tại: Khu V, phường N, thị xã A, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình tham gia tố tụng người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Bùi Quang T1 trình bày: Ngày 30/6/2016, bà Nguyễn Thị Kim L (hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ phường N) vay vốn tại Ngân hàng TMCP Đ - Chi nhánh B - Phòng G như sau: số tiền vay 10.000.000 đồng; thời hạn vay 12 tháng; lãi suất vay 11%/năm (lãi suất tính trên dư nợ ban đầu); mục đích vay: bổ sung vốn kinh doanh; hình thức vay tín chấp; phương thức trả nợ: Trả vốn và lãi hàng tháng 11 tháng đầu, mỗi tháng trả 1.000.000 đồng; tháng cuối trả 100.000 đồng. Với số tiền vay, lãi suất và kỳ hạn như trên thì bà Nguyễn Thị Kim L phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền là 11.100.000 đồng (trong đó, vốn gốc là: 10.000.000 đồng, tiền lãi là 1.100.000 đồng).

Từ ngày 30/6/2016 đến ngày 30/6/2017 bà Nguyễn Thị Kim L trả cho ngân hàng 7.200.000 đồng (trong đó, vốn vay 6.425 538 đồng, lãi 437.180 đồng, lãi quá hạn 337.282 đồng). Sau đó bà L1 không trả nợ cho ngân hàng, như vậy là đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Tính đến ngày 20/12/2021, khoản vay vốn nêu trên đã quá thời hạn thanh toán vốn gốc và lãi vay. Ngân hàng đã nhiều lần làm việc thu hồi nợ, thông báo trả nợ, nhưng bà L vẫn không trả nợ đầy đủ cho Ngân hàng. Ngân hàng yêu cầu bà Nguyễn Thị Kim L và ông Phan Thanh S (người có nghĩa vụ liên quan) thanh toán toàn bộ số vốn gốc và lãi vay, tính đến ngày 30/6/2020 là 8.357.026 đồng, trong đó: Gốc 3.574.462 đồng; lãi trong hạn 662.820 đồng; lãi quá hạn: 4.119.744 đồng. Và tiền lãi quá hạn phát sinh cho đến khi trả hết nợ gốc cho Ngân hàng TMCP Đ theo lãi suất được quy định tại Hợp đồng vay.

* Theo bản tự khai, biên bản ghi lời khai, quá trình tố tụng bị đơn Nguyên Thị Kim L trình bày: Vào ngày 30/6/2016, chị vay Ngân hàng TMCP Đ - Phòng G 10.000.000 đồng. Khi vay, chị xác định có ký tên vào “Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ”. Chồng chị Phan Thanh S không biết chữ nên không ký tên vào Giấy nợ. Chữ ký “S” trong Giấy nợ là do người khác ký tên vì chồng chị không biết chữ. Mục đích vay tiền để sửa chữa nhà ở. Mặc dù không trực tiếp ký tên vào Giấy nợ nhưng chồng chị biết việc vay tiền vì sau khi nhận tiền vay chị đã nói cho chồng chị biết. Sau khi vay, hai vợ chồng chị có trả nợ cho Ngân hàng đến ngày 30/6 2017. Chị xác định tính đến ngày 20/12/2021 còn nợ Ngân hàng 8.575.608 đồng như Ngân hàng đã khởi kiện. Chị thống nhất số nợ, chị yêu cầu Ngân hàng ngừng tính lãi từ sau ngày 20/12/2021 để chị có điều kiện trả nợ.

Tại phiên tòa, - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã A phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Thẩm phán trong quá trình thụ lý, xây dựng hồ sơ vụ án và Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã tuân thủ các trình tự tố tụng đúng theo quy định pháp luật.

+ Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Đ. Buộc vợ chồng bà Nguyễn Thị Kim L, ông Nguyễn Thanh S1 có trách nhiệm trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ tổng số tiền 8.357.026đ (gốc 3.574.462đ, lãi trong hạn 662.820đ, lãi quá hạn 4.119.744đ). Bác yêu cầu bà Nguyễn Thị Kim L xin trả dần mỗi tháng 2.000.000đ vì Ngân hàng thương mại cổ phần Đ không chấp nhận; buộc vợ chồng bà Nguyễn Thị Kim L, ông Nguyên Thanh S1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngân hàng thương mại cổ phần Đ khởi kiện yêu cầu chị Nguyễn Thị Kim L phải có nghĩa vụ trả cho ngân hàng số tiền còn nợ (bao gồm vốn gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn và phần lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán hết nợ cho Ngân hàng). Căn cứ vào khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng Dân sự, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Bị đơn chị Nguyễn Thị Kim L cư trú tại phường N, thị xã A, tỉnh Bình Định nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Anh Phan Thanh S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt, không trình bày ý kiến, không thực hiện quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 70, 73 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó theo quy định tại khoản 1 Điều 96, Điều 97 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án. Nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt. Bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Căn cứ vào Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 30/6/2016 được ký kết giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ và bà Nguyễn Thị Kim L được Hội Liên hiệp phụ nữ phường N xác nhận. Thể hiện, bà Nguyễn Thị Kim L có đề nghị Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ cho vay số tiền 10.000.000 đồng, về mục đích vay tiền, thời hạn vay 12 tháng; lãi suất vay 11%/năm; hình thức vay tín chấp; phương thức trả nợ lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn đúng với lời trình bày của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng bà Nguyễn Thị Kim L đã thanh toán cho ngân hàng được số tiền 7.200.000 đồng (trong đó, vốn vay 6.425 538 đồng, lãi 437.180 đồng, lãi quá hạn 337.282 đồng). Xét thấy, Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 30/6/2016 là hợp đồng được lập thành văn bản. Các thỏa thuận trong Hợp đồng đều thể hiện ý chí tự nguyện của các bên giao kết hợp đồng và phù hợp với quy định của pháp luật, nên hợp đồng này là hợp pháp. Do đó, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa các bên giao kết hợp đồng và các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thỏa thuận đã cam kết. Bà Bà Nguyễn Thị Kim L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ khởi kiện yêu cầu Bà Bà Nguyễn Thị Kim L có nghĩa vụ trả cho ngân hàng số tiền nợ gốc tính đến nay là 3.574.462 đồng là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[3.2] Về lãi suất: Giấy đăng ký vay tiền trả góp kiêm khế ước nhận nợ ngày 30/6/2016, thời hạn vay 12 tháng đến ngày 30/6/2017 bà L có nghĩa vụ thanh lý trả nợ theo hợp đồng tín dụng khế ước có thỏa thuận lãi suất trong hạn 11%/năm, lãi suất quá hạn 1,5 lãi suất cho vay trong hạn. Việc thỏa thuận lãi suất trên là phù hợp với Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng, nên được chấp nhận. Theo Điều 429 của Bộ luật dân sự, thời hiệu khởi kiện về hợp đồng được quy định là 03 năm, cho nên Ngân hàng được quyền khởi kiện bà L thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền gốc vay 3.574.462 đồng, tiền lãi trong hạn 662.820 đồng và khoản tiền lãi quá hạn tính đến ngày 30/6/2020 là 4.119.744 đồng. Do đó, buộc bà Nguyễn Thị Kim L phải có nghĩa vụ trả cho ngân hàng số tiền lãi tính đến ngày 30/6/2020 gồm lãi trong hạn 662.820 đồng, lãi quá hạn 4.119.744 đồng.

[3.3] Chị L thừa nhận số tiền vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ sử dụng vào việc sửa chữa nhà của vợ chồng và sau khi vay vợ chồng chị đã cùng chung trả nợ vay cho ngân hàng nên có đủ cơ sở buộc chồng chị L là anh Phan Thanh S cùng liên đới trả khoảng nợ vay cho ngân hàng là phù hợp.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, vợ chồng chị Nguyễn Thị Kim L phải 417.850 đồng [5] Ý kiến của Kiểm sát viên về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 264, Điều 267, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 429, Điều 463, Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015

Căn cứ vào các Điều 91, 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010

Áp dụng điểm khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ. Buộc vợ chồng bà Nguyễn Thị Kim L, ông Phan Thành S2 liên đới có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ tổng số tiền 8.357.026 đồng (Trong đó: vốn gốc là 3.574.462 đồng, tiền lãi tính đến ngày 30/6/2020 gồm lãi trong hạn 662.820 đồng, lãi quá hạn 4.119.744 đồng) khi bản án có hiệu lực thi hành.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Vợ chồng bà Nguyễn Thị Kim L, ông Phan Thành S2 phải chịu 417.850 đồng. Ngân hàng thương mại cổ phần Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005082 ngày 19 tháng 01 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A, tỉnh Bình Định.

3. Quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

4. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án:

4.1. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4.2. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 157/2023/DS-ST

Số hiệu:157/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã An Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về