TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 154/2022/DS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 16 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 72/2022/TLST-DS về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 117/2022/QĐXXST-DS ngày 05/9/2022 giữa:
- Nguyên đơn: Ngân hàng S. Địa chỉ: Lầu 8. 266-268 N, phường 8, quận 3, tp. Hồ Chí Minh. Địa chỉ liên hệ: 240 Nguyễn Hữu T, Đà Nẵng. Đại diện theo ủy quyền: ông Trương Đình Vinh. Có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
- Bị đơn: Bà Đặng Tô Thúy K, sinh năm: 1996. Địa chỉ: Đường T, tổ D, phường P, quận L, tp. Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện nguyên đơn Ngân hàng S (Sau đây gọi tắt là Ngân hàng), quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 26/6/2018, bà Đặng Tô Thúy K ký với Ngân hàng Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng – gọi chung là Hợp đồng). Căn cứ vào thu nhập của bà K, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng, hạn mức 20.000.000 đồng, mục đích: tiêu dùng cá nhân, với mức lãi suất áp dụng là 2,15%/ tháng, phí theo bản điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng kèm theo. Từ ngày 15/9/2019, mức lãi suất áp dụng là 2,6%/tháng. Trong quá trình sử dụng thẻ, bà K đã thực hiện nhiều giao dịch với số tiền các lần giao dịch là: 68.622.210 đồng và thanh toán cho Ngân hàng số tiền: 50.532.351 đồng (thứ tự thanh toán căn cứ vào . Sau đó, bà K không tiếp tục thanh toán và mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc nhưng bà K không có thiện chí trả nợ. Ngày 01/5/2019, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ sang nợ quá hạn.
Tính đến ngày 09/5/2022, bà K còn nợ Ngân hàng số tiền: 51.296.279 đồng, trong đó dư nợ gốc là 21.541.944 đồng và nợ lãi 29.754.335 đồng.
Ngân hàng giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như sau: Buộc bà Đặng Tô Thúy K thanh toán số tiền tạm tính đến ngày 16/9/2022 là: 54.796.789 đồng, trong đó nợ gốc là 21.541.944 đồng và nợ lãi 33.254.845 đồng.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án tiến hành triệu tập và Thông báo tìm kiếm trên phương tiện thông tin đại chúng, bị đơn bà Đặng Tô Thúy K đều vắng mặt không có lý do chính đáng.
* Phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng trình tự quy định của pháp luật. Đối với các đương sự: Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 72 của BLTTDS.
Về việc giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật, cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện thì nguyên đơn Ngân hàng yêu cầu bị đơn bà Đặng Tô Thúy K trả số tiền nợ vay theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 30 BLTTDS và điểm a khoản 3 Điều 98 Luật Các tổ chức tín dụng, quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng tín dụng.
[2] Về thẩm quyền: tại thời điểm ký kết hợp đồng, bị đơn bà Đặng Tô Thúy K cung cấp địa chỉ tại Đường T, tổ D, phường P, quận L, tp. Đà Nẵng. Do đó, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS, tranh chấp phát sinh giữa Ngân hàng và bà K thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, tp. Đà Nẵng.
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tìm kiếm bà Đặng Tô Thúy K trên phương tiện thông tin đại chúng và bà K đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng bà K vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 BLTTDS, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà Đặng Tô Thúy K.
Về nội dung:
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đối với tiền nợ gốc và nợ lãi: [4.1] Giữa bà Đặng Tô Thúy K và Ngân hàng có ký kết Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng với mục đích phục vụ cho tiêu dùng. Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng được ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, các chủ thể tham gia ký kết có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự, có hình thức và nội dung phù hợp với Điều 13 đến Điều 17 Thông tư số 19/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động thẻ ngân hàng (Thông tư số 19) nên có hiệu lực đối với các bên đã tham gia giao dịch, qua đó để xác định bà Đặng Tô Thúy K có quan hệ tín dụng với Ngân hàng.
[4.2] Theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng thì không có thời hạn sử dụng thẻ. Nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng bà Đặng Tô Thúy K đã vi phạm phân kỳ trả nợ. Do đó, Ngân hàng khởi kiện bà K thanh toán toàn bộ số tiền nợ trước hạn là phù hợp với thỏa thuận của hai bên và khoản 1 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng.
[4.3] Tại bản trình bày ngày 16/9/2022, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác định tạm tính đến ngày 16/9/2022, bà K còn nợ Ngân hàng số tiền: 54.796.789 đồng, trong đó nợ gốc là 21.541.944 đồng và nợ lãi 33.254.845 đồng.
HĐXX xét thấy: bà Đặng Tô Thúy K đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ và thỏa thuận đã ký kết với Ngân hàng. Căn cứ biên bản xác minh ngày 21/6/2022 tại Công án phường Hòa Phát thì bà K không còn cư trú tại địa phương từ năm 2017 đến nay. Việc bà K khi giao kết hợp đồng cung cấp thông tin, địa chỉ sai sự thật chứng tỏ bà không có thiện chí trả nợ và vi phạm các quy định theo cam kết tại Hợp đồng. Do đó, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc bà Đặng Tô Thúy K có nghĩa vụ thanh toán tổng số tiền tạm tính đến ngày 16/9/2022 là 54.796.789 đồng, trong đó tiền nợ gốc: 21.541.944 đồng, nợ lãi: 33.254.845 đồng và lãi tiếp tục tính từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi bà Đặng Tô Thúy K trả dứt điểm số tiền trên theo lãi suất đã ký kết là có cơ sở và phù hợp với thỏa thuận của các bên tại Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, cũng như phù hợp với quy định tại Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng, Điều 4 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Điều 13 và 15 Thông tư số 19 nên HĐXX chấp nhận.
[5] Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là cơ sở phù hợp với nhận định trên của HĐXX nên được chấp nhận.
Từ những phân tích đã nêu trên, HĐXX có đủ cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.
[6] Về án phí:
Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hoàn trả cho Ngân hàng S số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 30, 35, 39, 157,158, 227, 228 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 91, khoản 1 Điều 95 và điểm a khoản 3 Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng;
- Khoản 4 Điều 13, Điều 15, 16 và 17 Thông tư số 19/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động thẻ Ngân hàng;
- Điều 4 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S buộc bà Đặng Tô Thúy K phải trả cho Ngân hàng S tổng số tiền tạm tính đến ngày 16/9/2022 là 54.796.789 đồng, trong đó tiền nợ gốc: 21.541.944 đồng, nợ lãi: 33.254.845 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong Hợp đồng cho vay, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đặng Tô Thúy K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.739.839 đồng. Hoàn trả cho Ngân hàng S số tiền tạm ứng án phí 1.275.000 đồng theo biên lai thu số 0001897 ngày 23/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ, tp. Đà Nẵng.
3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự.Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 154/2022/DS-ST
Số hiệu: | 154/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về