TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 15/2023/DS-ST NGÀY 07/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 07 tháng 9 năm 2023, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Gio Linh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 75/2023/TLST-DS ngày 16 tháng 6 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2023/QĐXXST-DS ngày 24/8/2023, giữa:
- Nguyên đơn: Ngân hàng A; địa chỉ: số 02 đường H, phường C, quận B, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: ông Phạm Toàn V - Chức vụ: Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Đình H - Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng A - Chi nhánh huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị (theo Quyết định uỷ quyền số 2665/QĐ-NHNo-PC ngày 01/12/2022).
Người đại diện theo ủy quyền lại: ông Đỗ Văn M – Giám đốc Phòng giao dịch V, Ngân hàng A Chi nhánh huyện Gio Linh (Quyết định uỷ quyền số 326/QĐ- NHNo.GL-TH ngày 07/8/2023); có mặt.
- Bị đơn: chị Võ Thị D, sinh năm 1981; trú tại: khu phố 5, thị trấn V, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: cháu Hồ Thị Thu T, sinh ngày 26/11/2011 và Hồ Thị Tuyết N, sinh ngày 08/8/2016; cùng trú tại: khu phố 5, thị trấn V, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị (là con của anh Hồ Văn Th và chị Võ Thị D).
Người giám hộ cho cháu Hồ Thị Thu T và Hồ Thị Tuyết N: chị Võ Thị D; trú tại: khu phố 5, thị trấn V, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện đề ngày 29/5/2023, Biên bản hòa giải ngày 23/8/2023 và tại phiên tòa hôm nay đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày:
Thực hiện chủ trương của Nhà nước Ngân hàng A Chi nhánh huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị đã ký các Hợp đồng tín dụng số 3905-LAV-201603326 ngày 20/09/2016 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng tín dụng số 3905-LAV- 201603326 ngày 20/09/2016 số 3905-LAV-201603326.1/HĐSĐBS ngày 29/08/2018 với hộ anh Hồ Văn Th (các thành viên trong hộ anh Th gồm: anh Hồ Văn Th, chị Võ Thị D, cháu Hồ Thị T và Hồ Thị Tuyết N; trong đó, anh Th là chủ hộ, chị D là vợ anh Th, cháu N và cháu T là con anh Th, chị D); theo đó Ngân hàng A Chi nhánh huyện Gio Linh cho hộ anh Th vay 1.800.000.000 đồng (một tỷ, tám trăm triệu đồng), thời hạn vay là 11 năm, mục đích vay là để nâng cấp Tàu cá thân gỗ theo Nghị định 67/2024/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ; kỳ hạn trả nợ 03 tháng 01 lần vào ngày 30 của tháng cuối quý. Lãi suất cho vay là 7%/năm (trong đó, lãi suất chủ tàu phải trả là 3%, lãi suất nhà nước hỗ trợ là 4%); lãi suất quá hạn bằng 150% so với lãi suất cho vay trong hạn.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng hộ anh Hồ Văn Th đã trả cho Ngân hàng số tiền gốc là 544.000.000 đồng, tiền lãi là 123.111.336 đồng. Từ ngày 30/3/2021 đến nay, khách hàng đến hạn trả nợ gốc số tiền 446.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh Nng khách hàng không trả nợ vay cho Ngân hàng và không hợp tác trong việc trả nợ.
Hiện tại hộ anh Th còn nợ Ngân hàng tiền gốc: 1.256.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 07/9/2023 là 338.613.205 đồng (trong đó lãi trong hạn là 313.785.260 đồng và lãi quá hạn là 24.827.945 đồng).
Tại thời điểm giao kết hợp đồng tín dụng anh Hồ Văn Th đại diện cho hộ gia đình ký kết hợp đồng. Hiện nay anh Hồ Văn Th đi biển mất tích đã được Toà án tuyên bố là đã chết nên các thành viên trong hộ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa Ngân hàng A chi nhánh huyện Gio Linh và hộ anh Hồ Văn Th.
Vì vậy, Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị Võ Thị D vợ anh Th phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng A toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ lãi theo Hợp đồng tín dụng số: 3905-LAV-201603326 ngày 20/09/2016 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng tín dụng số 3905-LAV-201603326 ngày 20/09/2016 số 3905-LAV- 201603326.1/HĐSĐBS ngày 29/08/2018, là 1.594.613.205 đồng (một tỷ năm trăm chín mươi bốn triệu, sáu trăm mười ba nghìn, hai trăm lẻ năm đồng); trong đó, nợ gốc: 1.256.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 07/9/2023 là 338.613.205 đồng.
Tuyên buộc chị Võ Thị D kể từ ngày 08/9/2023 trở đi phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi trả hết số nợ gốc, ngoài ra còn phải thanh toán cho Ngân hàng khoản tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất quy định tại các Hợp đồng tín dụng đã ký kết.
Yêu cầu Toà án xử lý tài sản đảm bảo thế chấp của chị Võ Thị D theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 67/197076945 ngày 16/09/2016 được Văn phòng Công chứng H công chứng; Số công chứng 2591, quyển số 01 TP/VPCC – SCC/HĐGD ngày 16/09/2016 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng thế chấp tài sản số 67/197076945.1/HĐSĐBS ngày 27/08/2018 được Văn phòng Công chứng H công chứng; Số công chứng 3784, quyển số 02 TP/CC – SCC/HĐGD ngày 27/08/2018; Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 01/197076945 ngày 16/09/2016 được Văn phòng Công chứng H công chứng; Số công chứng 2592, quyển số 01 TP/VPCC – SCC/HĐGD ngày 16/09/2016 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 01/197076945.1/HĐSĐBS ngày 07/05/2018 được Văn phòng Công chứng H công chứng; Số công chứng 1955, quyển số 01 TP/VPCC – SCC/HĐGD ngày 07/05/2018 đã ký giữa Ngân hàng A chi nhánh huyện Gio Linh, Quảng Trị và các ông bà nói trên. Tài sản thế chấp là Tàu cá: 106, số đăng ký QT – 92189 - TS do Chi cục thủy sản – Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Trị cấp ngày 09/06/2016; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: BĐ 140487 do UBND huyện Gio Linh cấp ngày 30/11/2011.
- Tại Biên bản hòa giải ngày 23/8/2023 và tại phiên tòa hôm nay bị đơn chị Võ Thị D trình bày: đây là khoản nợ của hai vợ chồng chị D vay Ngân hàng mục đích để nâng cấp tàu đánh cá thân gỗ để làm ăn, Nng hiện nay chồng chị D là anh Hồ Văn Th đi biển đã chết; chị D thừa nhận còn nợ Ngân hàng số tiền gốc và lãi 1.594.613.205 đồng. Chồng chị D anh Hồ Văn Th chết không để lại di chúc, bố mẹ chồng chị D là ông Hồ Văn B và bà Trần Thị M không liên quan đến khoản vay của vợ chồng chị D và bố mẹ chồng chị D đã từ chối nhận quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của anh Hồ Văn Th và khoản nợ của Ngân hàng để lại nên đề nghị Toà án chấp nhận. Vợ chồng chị D đã dùng tài sản của mình để thế chấp Ngân hàng để vay; nay chồng chị D đã chết, bố mẹ chồng từ chối nhận quyền và nghĩa vụ, các con của chị D và anh Th còn nhỏ nên chị D xin tự chịu trách nhiệm đối với khoản vay của Ngân hàng, Nng do điều kiện khó khăn nên không thể có tiền trả nợ cho Ngân hàng, đề nghị Ngân hàng cho xoá nợ cho chị D hoặc không hoá giá nhà để mẹ con chị D có nơi sinh sống.
* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:
- Về thủ tục tố tụng: Việc xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền thụ lý vụ án, tư cách người tham gia tố tụng đảm bảo theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong việc xác minh, thu thập, giao nhận chứng cứ, ban hành các văn bản tố tụng, chấp hành thời hạn tố tụng và chuyển hồ sơ vụ án đúng hạn luật định. Tại phiên tòa, HĐXX và Thư ký đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
- Người tham gia tố tụng: nguyên đơn và bị đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Về nội dung: Đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 và Điều 157 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 463, 466, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc chị Võ Thị D phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng A toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ lãi theo Hợp đồng tín dụng số: 3905-LAV-201603326 ngày 20/09/2016 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng tín dụng số 3905-LAV-201603326 ngày 20/09/2016 số 3905-LAV- 201603326.1/HĐSĐBS ngày 29/08/2018, là 1.594.613.205 đồng; trong đó, nợ gốc:
1.256.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 07/9/2023 là 338.613.205 đồng.
- Kể từ ngày 07/9/2023 chị D còn phải thanh toán cho Ngân hàng khoản tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất quy định tại các Hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi trả hết số tiền nợ gốc.
- Trường hợp chị Nguyễn Thị D không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm theo Hợp đồng thế chấp tài sản đã ký kết để thu hồi nợ - Về án phí: áp dụng Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Võ Thị D. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí dân sự cho nguyên đơn.
- Về chi phí tố tụng khác: chị Võ Thị D có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng số tiền 3.400.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ mà Ngân hàng đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ tranh chấp: Ngân hàng A khởi kiện yêu cầu chị Võ Thị D trả số tiền còn nợ theo Hợp đồng tín dụng đã vay. Do đó, Toà án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: bị đơn chị Võ Thị D cư trú tại: khu phố 5, thị trấn V, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gio Linh.
[1.3] Xác định hàng thừa kế và tư cách người tham gia tố tụng:
Khi ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng A Chi nhánh huyện Gio Linh để vay vốn nâng cấp Tàu đánh cá thân gỗ theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP cho hộ gia đình vay vốn, hộ gia đình anh Hồ Văn Th có 04 thành viên, gồm: anh Th, chị D vợ anh Th và các con là cháu Hồ Thị Thu T và Hồ Thị Tuyết N.
Anh Hồ Văn Th đi biển bị mất tích; tại Quyết định số 03/2023/QĐST-VDS ngày 11/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Gio Linh đã tuyên bố anh Hồ Văn Th sinh năm 1979; địa chỉ nơi cư trú cuối cùng: khu phố 5, thị trấn V, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị đã chết. Thời điểm anh Hồ Văn Th chết không để lại di chúc và trước thời điểm Tòa án thụ lý vụ án nên chị Võ Thị D vợ anh Th, ông Hồ Văn B, bà Trần Thị M là bố mẹ anh Th, cháu Hồ Thị Thu T và cháu Hồ Thị Tuyết N con của anh Th là hàng thừa kế thứ nhất của anh Hồ Văn Th. Tuy nhiên, tại Biên bản làm việc ngày 08/8/2023 ông Hồ Văn B và bà Trần Thị M đã từ chối nhận quyền và nghĩa vụ đối với tài sản và khoản nợ của Ngân hàng nói trên của anh Hồ Văn Th; chị Võ Thị D tự nguyện nhận nghĩa vụ của anh Th để lại. Do đó, tại Thông báo số 75b/TB-TA ngày 14/8/2023 Tòa án đã đưa ông Hồ Văn B và bà Trần Thị M là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ra khỏi vụ án.
Đối với cháu T và cháu N là người chưa thành niên (dưới 13 tuổi) nên chị Võ Thị D là người đại diện hợp pháp cho các con. [2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Xét tính hợp pháp của Hợp đồng, chủ thể của hợp đồng, hình thức và nội dung của Hợp đồng:
Căn cứ các Hợp đồng tín dụng đã được ký kết giữa Ngân hàng A với anh Hồ Văn Th, chị Võ Thị D là người ủy quyền cho anh Hồ Văn Th ký kết hợp đồng, Hội đồng xét xử thấy rằng: Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, các bên tham gia ký kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên các Hợp đồng trên là hợp pháp.
Hình thức của Hợp đồng được lập thành văn bản, có chữ ký của các bên tham gia hợp đồng đúng quy định của pháp luật.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng nông ngiệp và phát triển nông thôn Việt Nam:
Căn cứ Hợp đồng tín dụng số: 3905-LAV-201603326 ngày 20/09/2016 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng tín dụng số 3905-LAV-201603326 ngày 20/09/2016, số 3905-LAV-201603326.1/HĐSĐBS ngày 29/08/2018 thì hộ anh Hồ Văn Th có vay của Ngân hàng số tiền 1.800.000.000 đồng để nâng cấp Tàu cá thân gỗ theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ. Quá trình vay hộ anh Th đã trả được số tiền gốc là 544.000.000 đồng hiện còn nợ số tiền gốc là 1.256.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh đến ngày 07/9/2023 là 338.613.205 đồng, trong đó lãi trong hạn là 313.785.260 đồng và lãi quá hạn là 24.827.945 đồng.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng N tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn chị Võ Thị D thừa nhận còn nợ Ngân hàng A số tiền gốc và lãi N trên và xin tự chịu trách nhiệm với khoản vay này. Khoản vay này là vay cho hộ gia đình nên vợ chồng chị D có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng; hiện tại chồng chị D anh Th đã chết nên chị D có nghĩa vụ chịu trách nhiệm đối với khoản nợ này, không liên quan đến người khác. Chị Võ Thị D đề nghị Ngân hàng xoá nợ nhưng Ngân hàng không đồng ý.
Xét thấy, việc vay tiền và hiện tại còn nợ Ngân hàng số tiền gốc và lãi N trên là đúng, chị D xin tự chịu trách nhiệm đối với khoản nợ trên nhưng chị D không trả nợ cho Ngân hàng đúng thời hạn ghi trong hợp đồng tín dụng là vi phạm hợp đồng tín dụng đã ký kết, vi phạm Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng.
Đối với yêu cầu tiền lãi: theo Hợp đồng tín dụng lãi suất của khoản vay là 7%/năm; trong đó, lãi suất chủ tàu phải trả là 3%, lãi suất nhà nước hỗ trợ là 4%. Tuy nhiên, do chị D vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu toàn bộ lãi suất N đã cam kết trong hợp đồng. Do đó, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu chị Võ Thị D phải trả toàn bộ nợ gốc và lãi nêu trên là có cơ sở cần chấp nhận.
[2.3] Đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp: để đảm bảo cho khoản vay anh Hồ Văn Th và chị Võ Thị D đã ký kết hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 140487 do Ủy ban nhân dân huyện Gio Linh cấp ngày 30/11/2011 cho anh Hồ Văn Th và chị Võ Thị D, địa chỉ thửa đất: khu phố 5, thị trấn V, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị và Tàu đánh cá võ gỗ: số đăng ký QT–92189–TS do Chi cục thủy sản – Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Trị cấp ngày 09/6/2016 cho chủ tàu Hồ Văn Th; theo các Hợp đồng thế chấp tài sản số 67/197076945 ngày 16/09/2016, Hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng thế chấp tài sản số 67/197076945.1/HĐSĐBS ngày 27/08/2018, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 01/197076945 ngày 16/09/2016 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 01/197076945.1/HĐSĐBS ngày 07/05/2018 đã được ký kết giữa nguyên đơn và bị đơn. Do đó, trong trường hợp chị Võ Thị D không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu phát mãi tài sản để thu hồi nợ.
[2.4] Từ những phân tích trên thấy rằng: ông Hồ Văn B và bà Trần Thị M là bố mẹ đẻ của anh Hồ Văn Th đã từ chối nhận quyền và nghĩa vụ đối với tài sản và khoản nợ của Ngân hàng nói trên của anh Hồ Văn Th; chị Võ Thị D thừa nhận khoản vay và xin tự chịu trách nhiệm đối với nghĩa vụ anh Th để lại nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gio Linh. Buộc chị Võ Thị D phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng A toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ lãi tính đến ngày 07/9/2023 theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết là 1.594.613.205 đồng (một tỷ năm trăm chín mươi bốn triệu, sáu trăm mười ba nghìn, hai trăm lẽ năm đồng); ngoài ra, chị Võ Thị D còn phải thanh toán cho Ngân hàng khoản tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất quy định tại các Hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi trả hết nợ gốc. Nếu chị Võ Thị D không trả hoặc trả không đầy đủ khoản nợ còn lại thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền tiến hành phát mãi toàn bộ tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo Hợp đồng đã ký kết.
[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí tố tụng khác:
- Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên không phải chịu án án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp.
Bị đơn chị Võ Thị D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định; tuy nhiên, chị D là hộ nghèo thuộc đối tượng được miễn án phí và chị D đã có đơn xin miễn. Do đó, HĐXX miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Võ Thị D.
- Về chi phí tố tụng: chị Võ Thị D phải chịu 3.400.000 đồng tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ . Do Ngân hàng đã nộp chi phí trên nên chị Võ Thị D có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng số tiền 3.400.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 và Điều 157 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 299, 463, 464, 465, 466, 468 và 615 của Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ vào các Điều 91 và 95 của Luật các tổ chức tín dụng; Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng A.
- Buộc chị Võ Thị D phải trả cho Ngân hàng A toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ lãi phát sinh đến ngày 07/9/2023 theo Hợp đồng tín dụng số: 3905-LAV-201603326 ngày 20/09/2016 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng tín dụng số 3905-LAV- 201603326 ngày 20/09/2016 số 3905-LAV-201603326.1/HĐSĐBS ngày 29/08/2018 là 1.594.613.205 đồng (một tỷ năm trăm chín mươi bốn triệu, sáu trăm mười ba nghìn, hai trăm lẻ năm đồng); trong đó: nợ gốc là 1.256.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 07/9/2023 là 338.613.205 đồng (trong đó lãi trong hạn là 313.785.260 đồng và lãi quá hạn là 24.827.945 đồng).
Kể từ ngày 08/9/2023, chị Võ Thị D phải thanh toán tiền lãi phát sinh đối với số nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận theo các Hợp đồng tín dụng trên cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.
- Trường hợp chị Võ Thị D không trả hoặc trả không đầy đủ khoản nợ còn lại thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền tiến hành phát mãi toàn bộ tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo Hợp đồng thế chấp tài sản đã ký kết, gồm:
Quyền sử dụng đất và tài sản trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BĐ 140487 do Ủy ban nhân dân huyện Gio Linh cấp ngày 30/11/2011 cho anh Hồ Văn Th và chị Võ Thị D, địa chỉ thửa đất: khu phố 5, thị trấn V, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
Tàu đánh cá võ gỗ: 106, số đăng ký QT–92189–TS do Chi cục khái thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản Quảng Trị, thuộc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Trị cấp ngày 09/6/2016 cho anh Hồ Văn Th.
2. Về chi phí tố tụng: chị Võ Thị D phải chịu 3.400.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ ; do Ngân hàng đã nộp khoản chi phí trên nên chị D có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng số tiền 3.400.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ mà Ngân hàng đã nộp.
3. Về án phí: miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Võ Thị D.
Hoàn trả cho Ngân hàng A số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 29.339.600 đồng (Hai mươi chín triệu, ba trăm ba mươi chín nghìn, sáu trăm đồng), theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số CC/2022/0000262 ngày 16/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
5. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 15/2023/DS-ST
Số hiệu: | 15/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gio Linh - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về