TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 14/2024/DS-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 05 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 118/2023/TLST - DS, ngày 31 tháng 10 năm 2023 về “tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 180/2023/QĐXXST-DS, ngày 11 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty A; địa chỉ: Nguyễn Thị Minh K, phường Võ Thị S, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diệp hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hứa Minh T, sinh năm 1985; nơi đăng ký thường trú: Ấp S, xã H, huyện T, tỉnh Sóc Trăng; nơi ở hiện nay: Nguyễn Thị Minh K, phường Võ Thị S, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. (Giấy ủy quyền số 463/2023/UQLM-JIVF ngày 11/10/2023) (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Lâm Khải D, sinh năm 2001; địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện P, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Trong đơn khởi kiện lập ngày 20/9/2023 của nguyên đơn Công ty A (sau đây viết tắt là Công ty) và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Hứa Minh T trình bày:
Nguyên vào ngày 19/02/2023, ông Lâm Khải D ký hợp đồng số 919110003897631000 với Công ty A vay tiền mặt theo hình thức trả góp hàng tháng, cụ thể như sau:
Thời hạn vay 18 tháng, số tiền thanh toán mỗi tháng là 2.368.448 đồng, số tiền vay là 29.000.000 đồng (hai mươi chín triệu đồng), lãi suất 4.35 %. Ông D đã thanh toán nợ gốc là 3.459.582 đồng, lãi là 3.610.866 đồng, lãi quá hạn 9.900 đồng, phí quản lý khoản vay 36.000 đồng. Tổng cộng ông D đã thanh toán cho công ty số tiền là 7.116.348 đồng (bảy triệu một trăm mười sáu nghìn ba trăm bốn mươi tám đồng). Dư nợ ông D còn nợ lại Công ty A với nợ gốc là 25.540.418 đồng, tiền lãi (tính đến 05/02/2024) là 9.465.858 đồng, tiền lãi quá hạn (tính đến 05/02/2024) là 851.232 đồng, phí quản lý khoản vay là 108.000 đồng.Tổng cộng ông D còn nợ lại Công ty số tiền theo hợp đồng tín dụng là 35.965.508 đồng (ba mươi lăm triệu, chín trăm sáu mươi lăm nghìn, năm trăm lẻ tám đồng).
Theo thỏa thuận trong hợp đồng thì ông D có trách nhiệm thanh toán bao gồm gốc và lãi trong vòng 18 tháng, mỗi tháng ông D phải thanh toán cho Công ty A số tiền là 2.368.448 đồng vào trước hoặc đúng ngày 22 hàng tháng cho đến khi kết thúc hợp đồng. Ngày thanh toán đầu tiên bắt đầu từ 22/03/2023. Từ ngày 03/04/2023 đến ngày 22/06/2023 ông D thanh toán được cho Công ty A số tiền là 3.459.582 đồng. Tuy nhiên, từ sau ngày 22/06/2023 đến nay, ông D không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán và cố tình lẩn tránh, mặc dù Công ty đã nhiều lần gọi điện thoại yêu cầu ông D thanh toán, nhiều lần đến nhà yêu cầu ông D thanh toán.Việc Ông D không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán đã vi phạm Điều 3; Điều 8 của hợp đồng số 919110003897631000 ngày 19/02/2023 mà hai bên đã thỏa thuận và ký kết, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của Công ty A.
Nay Công ty A yêu cầu bị đơn ông D phải thanh toán một lần toàn bộ khoản nợ cho Công ty A, số tiền tạm tính đến hết ngày 05/02/2024 là 35.965.508 đồng.
Ông D tiếp tục thanh toán cho Công ty A tiền lãi phát sinh do nợ quá hạn, lãi quá hạn, các loại phí từ sau ngày 06/02/2024 cho đến khi hết nợ theo Hợp đồng tín dụng số 919110003897631000 ký ngày 19/02/2023.
- Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Lâm Khải D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tống đạt các văn bản tố tụng khác nhưng không thể thực hiện được thủ tục cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho họ được vì ông D đã bỏ địa phương đi và không thông báo cho Tòa án và nguyên đơn biết việc đã thay đổi địa chỉ nơi cư trú và địa chỉ nơi cư trú mới, nên căn cứ vào khoản 3 Điều 70, khoản 1 Điều 72, khoản 3 Điều 177 và Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho họ theo đúng quy định của pháp luật.
- Tại phiên toà, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, đối với bị đơn ông Lâm Khải D chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn ông Lâm Khải D hoàn trả cho nguyên đơn số tiền gốc là 25.540.418 đồng, tiền lãi tính đến ngày 05/02/2024 là 10.425.090 đồng (trong đó: Lãi trong hạn là: 9.465.858 đồng, lãi quá hạn: 851.232 đồng, phí quản lý tiền vay: 108.000 đồng) và tiếp tục tính lãi theo hợp đồng đến khi ông Lâm Khải D trả xong số nợ gốc cho Công ty.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Theo nội dung khởi kiện, nguyên đơn Công ty A yêu cầu ông Lâm Khải D trả số tiền nợ đã thực hiện giao dịch mà ông Lâm Khải D ký kết tại hợp đồng tín dụng số 919110003897631000 ký ngày 19/02/2023 Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng thụ lý vụ án và xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giải quyết “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong vụ án, bị đơn ông Lâm Khải D cư trú tại ấp B, xã H, huyện P, tỉnh Sóc Trăng nên Tòa án nhân dân huyện Long Phú thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Bị đơn ông Lâm Khải D đã được triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 3 Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt họ.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn Công ty A và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Để chứng minh cho việc bị đơn ông Lâm Khải D có vay vốn, Công ty cung cấp cho Tòa án chứng cứ là hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số 919110003897631000 ngày 19/02/2023 và giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án trả nợ ngày 19/02/2023 được ông D ký theo phương thức chữ ký điện tử, giấy ủy nhiệm chi, giấy báo nợ của Ngân hàng TMCP C và các giấy tờ khác có liên quan. Xét thấy, về hình thức, nội dung các văn bản này là phù hợp theo quy định của pháp luật nên được thừa nhận và bảo vệ. Các bên tham gia có các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ Hợp đồng đã ký; đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông D biết nhưng ông D không có ý kiến phản đối gì. Căn cứ vào khoản 2, khoản 4 Điều 91; khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự các tình tiết nêu trên là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh trong vụ án, nên Hội đồng xét xử khẳng định ông D đã vay và nhận đủ của Công ty số tiền là 29.000.000 đồng. Theo lịch sử thanh toán do Công ty cung cấp thể hiện sau khi vay ông D đã trả cho Công ty được số tiền gốc là 3.459.582 đồng, lần cuối cùng trả vào ngày 22/5/2023. Do đó, việc ông D không thực hiện nghĩa vụ trả tiếp dư nợ gốc và lãi theo giao kết trong hợp đồng đã vi phạm Điều 3 và Điều 8 của Hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết của Hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết, ông D là người có lỗi, là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật. Vì vậy, việc nguyên đơn Công ty yêu cầu thu hồi nợ trước hạn và buộc bị đơn ông D phải trả cho Công ty số tiền vay gốc còn lại là 25.540.418 đồng và tiền lãi là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn Công ty và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số 919110003897631000 ký ngày 19/02/2023 và giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án trả nợ ngày 19/02/2023 giữa Công ty và ông D đã giao kết mức lãi suất là Lãi suất: 4,35%/năm. Phương thức áp dụng và điều chỉnh lãi suất: Áp dụng lãi suất cố định theo tổng dư nợ gốc ban đầu. Lãi suất nợ gốc quá hạn: 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn. Lãi suất nợ lãi chậm trả: 10%/năm nên ông D phải có nghĩa vụ trả lãi cho Công ty theo giao kết là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng và Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu ông D hoàn trả tiền lãi theo giao kết trong hợp đồng từ ngày 23/6/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 05/02/2024 với số tiền là 10.425.090 đồng (trong đó: Lãi trong hạn là: 9.465.858 đồng, lãi quá hạn:
851.232 đồng, phí quản lý tiền vay: 108.000 đồng) và yêu cầu tiếp tục tính lãi theo hợp đồng từ ngày 06/02/2024 đến khi ông D trả xong số nợ gốc là có căn cứ, phù hợp với nội dung thỏa thuận về việc trả nợ gốc lãi, chuyển nợ quá hạn, tính lãi tiền vay tại hợp đồng tín dụng đã ký kết nên có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Như vậy, bị đơn ông Lâm Khải D có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn Công ty số tiền vay gốc còn lại là 25.540.418 đồng, tiền lãi theo giao kết trong hợp đồng đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 05/02/2024 là 10.425.090 đồng, tổng cộng là 35.965.508 đồng và ông D còn phải trả lãi cho nguyên đơn tiền lãi phát sinh tính trên số nợ gốc theo hợp đồng kể từ ngày 06/02/2024 cho đến khi trả xong số nợ gốc.
[5] Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị đơn phải chịu 1.798.275 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn Công ty A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 70, khoản 1 Điều 72, khoản 2, khoản 4 Điều 91, khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147, khoản 3 Điều 177, Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 3 Điều 235, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 91 và khoản 1 Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội; Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty A.
Buộc bị đơn ông Lâm Khải D có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn Công ty A số tiền vay gốc 25.540.418 đồng (hai mươi lăm triệu, năm trăm bốn mươi nghìn, bốn trăm mười tám đồng), tiền lãi theo giao kết trong hợp đồng đến ngày 05/02/2024 là 10.425.090 đồng (mười triệu, bốn trăm hai mươi lăm nghìn, không trăm chín mươi đồng), tổng cộng là 35.965.508 đồng (ba mươi lăm triệu, chín trăm sáu mươi lăm nghìn, năm trăm lẻ tám đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông Lâm Khải D còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán hết nợ. Trường hợp trong hợp đồng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất theo từng thời kỳ thì lãi suất mà ông Lâm Khải D phải tiếp tục thanh toán cho Công ty A cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Công ty A.
[2] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn ông Lâm Khải D phải chịu 1.798.275 đồng (một triệu, bảy trăm chín mươi tám nghìn, hai trăm bảy mươi lăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn Công ty A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí là 753.225 đồng (bảy trăm năm mươi ba nghìn hai trăm hai mươi lăm đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0010094, ngày 25/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng.
[3] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.
[4] Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 14/2024/DS-ST
Số hiệu: | 14/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về