TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 119/2021/DS-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 562/2020/TLST- DS ngày 26 tháng 11 năm 2020 về "Tranh chấp hợp đồng tín dụng" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2021/QĐXXST - DS ngày 24 tháng 8 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 165/2021/QĐST-DS ngày 10/9/2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam.
Trụ sở: Tầng 8, Văn phòng số L, Tòa nhà V, số A, đường T, phường B, Quận A, TP.Hồ Chí Minh.
Người được ủy quyền của Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam: Ông Nguyễn Quốc C - Giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam – Chi nhánh B, theo giấy ủy quyền số 263/2018/EIB/UQ- TGĐ ngày 28/12/2018 của Tổng Giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam.
Người được ủy quyền lại: Ông Nguyễn Văn V, Giám đốc Phòng giao dịch chợ B là người đại diện theo giấy ủy quyền số 11/2020/E -B/UQ-GĐ ngày 08/6/2020 của Giám đốc Chi nhánh - Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam (Thông báo chấm dứt ủy quyền số 26/2021/ E - B/UQ-GĐ ngày 29/9/202).
Ông Nguyễn Đoàn Văn T – Giám đốc Phòng giao dịch chợ B là người đại diện theo giấy ủy quyền số 25/2021/E - B/UQ-GĐ ngày 29/9/2021 của Giám đốc Chi nhánh - Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam; Có mặt.
Địa chỉ: Số B, đường P, phường T, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1971; Bà Ngô Thị D, sinh năm 1974.
Cùng địa chỉ: T9, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 08 tháng 6 năm 2020, đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Văn V và tại phiên tòa ông Nguyễn Đoàn Văn T người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 27/12/2017 Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam - Chi nhánh Đ– Phòng giao dịch chợ B với ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D đã ký Hợp đồng tín dụng số 1201-LAV- 2017- 02050 ngày 27/12/2017, Khế ước nhận nợ số 1201- LDS - 2017- 03087 ngày 27/12/2017 với số tiền vay gốc là 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng), thời hạn vay 60 tháng, lãi suất cho vay 10,5 %/năm, lãi suất cố định năm đầu tiên, từ năm thứ hai lãi suất tính bằng lãi suất tiết kiệm 24 tháng, lãnh lãi cuối kỳ +3%; chu kỳ thay đổi lãi suất 01 tháng / 01 lần, lãi suất quá hạn là 150% lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất trên số tiền lãi chậm trả là 10%/ năm, mục đích vay phục vụ nông nghiệp, phương thức trả gốc chia làm 05 kỳ, mỗi kỳ cách nhau 12 tháng, kỳ thứ nhất ngày 27/12/2018, kỳ cuối cùng ngày 27/12/2022, lãi trả hàng quý vào ngày 27. Qúa trình thực hiện hợp đồng ông H và bà D trả được một phần gốc và lãi với tổng số tiền là 191.482.479 đồng (Một trăm chín mươi mốt triệu bốn trăm tám mươi hai nghìn bốn trăm bảy mươi chín đồng), trong đó số tiền gốc là 145.200.000 đồng, lãi là 46.282.479 đồng.
Tại hợp đồng tín dụng số 1214 -LAV- 190000398 ngày 03/01/2019 và phụ lục hợp đồng của Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam - Chi nhánh Đ – Phòng giao dịch chợ B với ông H và bà D ký vay vốn số tiền gốc là 51.000.000 đồng, thời hạn vay 13 tháng, lãi suất cho vay 10,5 %/năm, chu kỳ thay đổi lãi suất 01 tháng / 01 lần, lãi suất quá hạn là 150% lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất trên số tiền lãi chậm trả là 10%/ năm, mục đích vay phục vụ nông nghiệp, phương thức trả gốc và lãi là đến ngày trả nợ thỏa thuận như trong hợp đồng. Hiện nay, ông H và bà D đã trả tất toán toàn bộ gốc và lãi đối với hợp đồng này.
Đối với hợp đồng tín dụng số 1201-LAV- 2017- 02050 ngày 27/12/2017, Khế ước nhận nợ số 1201- LDS - 2017- 03087 ngày 27/12/2017, do vi phạm các kỳ gốc và lãi thể hiện trong hợp đồng nên Ngân hàng chuyển sang số nợ quá hạn từ ngày 28/12/2019, khoản vay này Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam chưa bán nợ cho Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Để đảm bảo cho khoản vay trên ông H và bà D đã thế chấp tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để vay vốn tại Hợp đồng thế chấp số 330/2017/E - CBMT/HĐTC ngày 27/12/2017, công chứng tại Văn Phòng Công chứng Đ ngày 27/12/2017, số công chứng 4481, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD; đăng ký giao dịch đảm bảo tại Chi Nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ, số 1903 ngày 27/12/2017.
Tài sản bảo đảm khoản vay trên là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số số AM 653358 do UBND Huyện Đ cấp ngày 30/06/2008, tại thửa đất số 105, 115; tờ bản đồ số 84, diện tích 9.656m2 đất (9.051 m2 đất trồng cây lâu năm, 605m2 đất trồng cây hàng năm khác), tọa lạc tại Khe 86, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
Để đảm bảo về nguồn vốn, Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
Buộc ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam tổng số tiền gốc và lãi tính đến ngày xét xử là 340.598.606 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu, năm trăm chín mươi tám nghìn, sáu trăm linh sáu đồng) trong đó: Tiền gốc là 254.200.000 đồng (Hai trăm năm mươi tư triệu hai trăm nghìn đồng); lãi trong hạn là 53.153.333 đồng; lãi quá hạn là 27.506.355 đồng, lãi phạt lãi là 5.738.918 đồng, thời hạn tính lãi tính đến ngày 30/9/2021.
Ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền lãi phát sinh đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 1201-LAV- 2017- 02050 ngày 27/12/2017, Khế ước nhận nợ số 1201- LDS - 2017- 03087 ngày 27/12/2017, kể từ ngày 01/10/2021cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.
- Trong trường hợp ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thực hiện trả nợ không đầy đủ. Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm tại Hợp đồng thế chấp 330/2017/E - CBMT/HĐTC ngày 27/12/2017để thu hồi nợ cho Ngân hàng.
Trường hợp xử lý tài sản thế chấp không đủ để Ngân hàng thu hết nợ, thì yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý các nguồn thu, tài sản cá nhân hợp pháp khác của ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D để thu hồi nợ Bị đơn ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D trình bày: Qua xác minh tại địa phương thì ông H và bà D có đăng ký hộ khẩu thường tại T9, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, đi làm ăn xa thỉnh thoảng mới về. Ngoài niêm yết theo quy định, Tòa án gọi trực tiếp bằng điện thoại cho ông H và bà D. Tuy nhiên, do dịch Co Vid nên không về tham gia tố tụng được, xin kéo dài thời hạn trả nợ nhưng bên Ngân hàng không đồng ý, ông H và bà D không làm đơn xin giải quyết vắng mặt hay ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng. Vì vậy, Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định, đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông trình bày quan điểm giải quyết vụ án:
Về việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Thư ký từ khi thụ lý giải quyết vụ án đến khi xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng. Nguyên đơn chấp hành tốt quá trình tham gia tố tụng; bị đơn chưa chấp hành quá trình tham gia tố tụng.
Về nội dung: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 70, Điều 72, Điều 147, Điều 157, Điều 173, Điều 177, Điều 179; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Áp dụng các Điều 298, Điều 299, Điều 317, Điều 318, 319, Điều 323 Bộ luật dân sự;
Đề nghị: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam.
Buộc ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam tổng số tiền gốc và lãi là 340.598.606 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu, năm trăm chín mươi tám nghìn sáu trăm linh sáu đồng) trong đó: Tiền gốc là 254.200.000 đồng (Hai trăm năm mươi tư triệu hai trăm nghìn đồng); lãi trong hạn là 53.153.333 đồng; lãi quá hạn là 27.506.355 đồng, lãi phạt lãi là 5.738.918 đồng, thời hạn tính lãi tính đến ngày 30/9/2021.
Về các vấn đề khác đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật. Ý kiến khắc phục khác: Không.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
I.Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D phải có nghĩa vụ trả tổng số tiền cả gốc và lãi là 340.598.606 đồng. Hiện nay, ông H và bà D có đăng ký hộ khẩu tại xã N. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “ Tranh chấp hợp đồng tín dụng” được quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS và thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật Tố tụng dân sự.
[2] Về chấp hành pháp luật của bị đơn: Qua xác minh tại địa phương thì ông H và bà D có đăng ký hộ khẩu thường tại T9, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, đi làm ăn xa thỉnh thoảng mới về. Ngoài niêm yết theo quy định, Tòa án gọi trực tiếp bằng điện thoại cho ông H và bà D. Tuy nhiên, do dịch Co Vid nên không về tham gia tố tụng được, xin kéo dài thời hạn trả nợ nhưng bên Ngân hàng không đồng ý, ông H và bà D không làm đơn xin giải quyết vắng mặt hay ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng. Vì vậy, Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 173, Điều 174, Điều 177 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đồng thời, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc bị đơn không chấp hành pháp luật được coi tự ý từ bỏ quyền được tham gia tố tụng, quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình quy định tại Điều 70, Điều 72 của BLTTDS.
[3] Xét nội dung tranh chấp:
[3.1] Căn cứ Hợp đồng tín dụng số 1201-LAV- 2017- 02050 ngày 27/12/2017, Khế ước nhận nợ số 1201- LDS - 2017- 03087 ngày 27/12/2017 thì khoản vay trên của ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D đã để quá hạn. Quá trình thực hiện hợp đồng ông H và bà D trả được một phần gốc và lãi. Đồng thời, tất toán được đối với hợp đồng tín dụng số 1214 - LAV- 190000398 ngày 03/01/2019. Đối với Hợp đồng tín dụng số 1201-LAV- 2017- 02050 ngày 27/12/2017, Khế ước nhận nợ số 1201- LDS - 2017- 03087 ngày 27/12/2017 còn lại ông H và bà D không trả gốc như thỏa thuận trong hợp đồng. Ngân hàng đã thông báo thu hồi nợ nhiều lần nhưng không có kết quả; tính đến ngày xét xử ông H và bà D còn nợ Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam số tiền gốc là 340.598.606 đồng và tiền lãi của hợp đồng tính đến ngày 30/9/2021, do Ngân hàng lập bảng kê tính lãi cung cấp cho Tòa án. Qua đối chiếu kiểm tra dựa trên hợp đồng về lãi suất các bên thỏa thuận thì ông H và bà D còn nợ lãi trong hạn là 53.153.333 đồng; lãi quá hạn là 27.506.355 đồng, lãi phạt lãi là 5.738.918 đồng, thời hạn tính lãi tính đến ngày 30/9/2021. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam là có căn cứ nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng (có bảng tính lãi cụ thể nộp cho Tòa án đến ngày xét xử).
[3.2] Xét Hợp đồng thế chấp số 330/2017/E - CBMT/HĐTC ngày 27/12/2017 thì ông H và bà D đã dùng tài sản của mình là quyền sử dụng đất để bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng tín dụng đã được lập thành văn bản, được đăng ký thế chấp theo quy định. Trường hợp đến hạn mà không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Qua xem xét thẩm định tại chỗ đo đạc thực tế thì tài sản thế chấp trên có diện tích đúng với diện tích ông H và bà D được cấp theo các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và là tài sản hợp pháp của ông H và bà D đã thế chấp, phù hợp với quy định tại Điều 317, Điều 318, Điều 323 Bộ luật dân sự.
[3.3] Về số tiền lãi chậm trả kể từ ngày 01/10/2021. Theo hướng dẫn tại Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 17/10/2016 thì ông H và bà D phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 1201- LAV- 2017- 02050 ngày 27/12/2017, Khế ước nhận nợ số 1201- LDS - 2017- 03087 ngày 27/12/2017 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thì ông H và bà D phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi điều chỉnh theo quy định của Ngân hàng như đã thể hiện trong hợp đồng cho đến khi trả xong nợ.
[3.4] Trường hợp sau khi bản án có hiệu lực pháp luật mà ông H và bà D không trả nợ cho Ngân hàng theo quy định thì Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp trên để thu hồi nợ cho Ngân hàng.
[3.5] Trường hợp tài sản thế chấp không đủ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý tài sản hợp pháp khác của ông H và bà D để thi hành án thu hồi nợ cho Ngân hàng cho đến khi trả hết nợ theo quy định.
[4] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông: Đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và đúng pháp luật nên được chấp nhận.
[5] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp là 3.000.000 đồng, Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam đã nộp tạm ứng toàn bộ số tiền trên, ông H và bà D phải chịu toàn bộ số tiền trên nên cần buộc ông H và bà D phải hoàn trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).
[6] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với tổng số tiền gốc và lãi là 340.598.606 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu, năm trăm chín mươi tám nghìn sáu trăm linh sáu đồng) x 5 % = 17.029.930 đồng (Mười bảy triệu, không trăm hai mươi chín nghìn, chín trăm ba mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.
[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 70, 72, Điều 147, Điều 157, Điều 173, Điều 174, Điều 177, Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Áp dụng các Điều 298, Điều 299, Điều 317, Điều 318, 319, 320 Điều 323 Bộ luật dân sự;
Tuyên xử:
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam Buộc ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam tổng số tiền cả gốc và lãi do vi phạm Hợp đồng tín dụng là 340.598.606 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu, năm trăm chín mươi tám nghìn sáu trăm linh sáu đồng), trong đó: Tiền gốc là 254.200.000 đồng (Hai trăm năm mươi tư triệu hai trăm nghìn đồng); lãi trong hạn là 53.153.333 đồng; lãi quá hạn là 27.506.355 đồng, lãi phạt lãi là 5.738.918 đồng, thời hạn tính lãi tính đến ngày 30/9/2021.
Kể từ ngày 01/10/2021, ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D còn phải chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận theo hợp đồng tín dụng số 1201-LAV- 2017- 02050 ngày 27/12/2017, Khế ước nhận nợ số 1201- LDS - 2017- 03087 ngày 27/12/2017 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thì lãi suất mà ông H và bà D phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng.
Trong trường hợp ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp tại hợp đồng thế chấp số 330/2017/E - CBMT/HĐTC ngày 27/12/2017, được công chứng tại Văn Phòng Công chứng Đ ngày 27/12/2017, số công chứng 4481, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD; đăng ký giao dịch đảm bảo tại Chi Nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ, số 1903 ngày 27/12/2017.
Tài sản bảo đảm khoản vay trên là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số số AM 653358 do UBND Huyện Đắk Song cấp ngày 30/06/2008, tại thửa đất số 105, 115; tờ bản đồ số 84, diện tích 9.656m2 đất (9.051 m2 đất trồng cây lâu năm, 605m2 đất trồng cây hàng năm khác), tọa lạc tại Khe 86, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
Trường hợp xử lý tài sản thế chấp không đủ để Ngân hàng thu hết nợ, thì yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý các nguồn thu, tài sản cá nhân hợp pháp khác của ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D để thu hồi nợ theo quy định.
2. Về chi phí tố tụng khác: Căn cứ khoản 1 Điều 157 BLTTDS: Buộc ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D phải chịu 3.000.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Hoàn trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) mà Ngân hàng đã nộp tạm ứng.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc ông Nguyễn Văn H và bà Ngô Thị D phải nộp 17.029.930 đồng (Mười bảy triệu, không trăm hai mươi chín nghìn, chín trăm ba mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần X Việt Nam số tiền 9.527.000 đồng (Chín triệu năm trăm hai mươi bảy đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002049 ngày 25/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 119/2021/DS-ST
Số hiệu: | 119/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về