Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 112/2022/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 112/2022/KDTM-PT NGÀY 11/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 27 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 48/2021/TLPT- KDTM ngày 05 tháng 3 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng".

Do bản án sơ thẩm số 38/2020/KDTM-ST ngày 18/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội bị Nguyên đơn kháng cáo. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 337/2021/QĐ-PT ngày 31/5/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 519/2021/QĐ-PT ngày 11/6/2021; Thông báo mở lại phiên tòa số 226/2022/TB-MPT ngày 15/6/2022 giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á.

Trụ sở: Số 25 phố T, phường P, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: ông Lê Văn T-Chủ tịch Hội đồng quản trị Người đại diện theo ủy quyền: Anh Phạm Ngọc T (Theo văn bản ủy quyền số 4376/2019/UQ-Seabank ngày 03/4/2019). ( Có mặt).

*Bị đơn: Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn.

Trụ sở: Số 146 phố Q, phường Quang Trung, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: Bà Khâu Thị Thu Huyền - Chủ tịch Hội đồng quản trị. ( Vắng mặt).

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Đặng Văn B, sinh năm 1954

2. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1960

3. Anh Đặng Công T, sinh năm 1981

4. Chị Lê Thị N, sinh năm 1983

5. Cháu Đặng Thanh Tr, sinh năm 2007

6. Cháu Đặng Thanh T, sinh năm 2009

Cùng cư trú: Số ** đường N, thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của ông B, bà T, anh Tr, chị N: Chị Đặng Phương Báu, sinh năm 1989. Cư trú: 198 Quang Trung, Hà Đông, Hà Nội. ( Vắng mặt).

7. Ông Khâu Văn C, sinh năm 1969

8. Bà Đặng Thị H, sinh năm 1968

9. Anh Khâu Văn C, sinh năm 1989

10. Anh Khâu Văn C, sinh năm 1991

11. Anh Khâu Văn V, sinh năm 1996

12. Anh Khâu Văn T, sinh năm 1999

13. Chị Lê Thị Mai C, sinh năm 1982

14. Cháu Khâu Vy A, sinh năm 2013

15. Cháu Khâu Nhật M, sinh năm 2017

Cùng cư trú: Thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội Đại diện theo ủy quyền của ông Chung, bà Hồng, anh Chinh, chị Chi, anh Chình, anh Tư: Anh Khâu Văn Viễn, sinh năm 1996.

Cư trú: Ngõ 32/48/28 số nhà 5 phố Đ, Mễ Trì Hạ, Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội. ( Vắng mặt)

16. Chị Khâu Thị Thu H, sinh năm 1980

17. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1979 Cùng cư trú: Phố T, thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội. ( Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 22/5/2015 và quá trình giải quyết đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á trình bày: Ngày 01/07/2011, Công ty cổ phần thương mại Tân Thiên Sơn đã ký Hợp đồng tín dụng số 00.11.00418/HĐTD và phụ lục hợp đồng hạn mức tín dụng số 00.11.00416/PL01 với Ngân hàng TMCP Đông Nam Á với nội dung Ngân hàng cho Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn vay số tiền tối đa là 6.500.000.000đ; Mục đích vay: Bổ sung vốn lưu động năm 2011 - 2012. Thời hạn vay: 12 tháng; Lãi suất: Bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm cá nhân VNĐ kỳ hạn 13 tháng của Seabank + biên độ 10.3%. Lãi suất được điều chỉnh vào ngày đầu tiền của các tháng hoặc theo thông báo của Seabank phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước hoặc của Seabank trong từng thời kỳ; Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất thỏa thuận. Sau khi ký hợp đồng Ngân hàng đã giải ngân 5.900.000.000 đồng theo Giấy nhận nợ ngày 01/7/2011.

Tài sản đảm bảo cho khoản vay gồm:

- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 395235, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H: 1933 do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Đặng Văn Bưởi và bà Nguyễn Thị Thía ngày 20/01/2009, được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Ứng Hòa xác nhận chuyển nhượng lại cho anh Nguyễn Văn T ngày 28/04/2011.

- Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 797 tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 414520, số vào sổ H 01632 1980 do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Khâu Văn Chuyền ngày 20/01/2009, được chuyển nhượng cho bà Khâu Thị Thu Huyền ngày 24/12/2010.

- Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 112 tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội (nay là thành phố Hà Nội) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 105207, vào sổ số 0013 QSDĐ/UH do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Khâu Văn Chung ngày 10/10/2003, được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Ứng Hòa xác nhận chuyển nhượng lại cho Chị Khâu Thị Thu H.

Quá trình thực hiện hợp đồng Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn đã trả được 900.478.481đ tiền nợ gốc và 444.699.80đ nợ lãi. Tính đến ngày 18/9/2020, Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn còn nợ Ngân hàng tổng số tiền là: 15.291.934.149 đồng. Trong đó: Nợ gốc: 4.999.521.519 đồng; Nợ lãi trong hạn: 308.411.392 đồng; Nợ lãi quá hạn: 9.984.001.238 đồng.

Nay ngân hàng khởi kiện đề nghị Tòa án: Buộc Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn thanh toán trả cho Ngân hàng TMCP Đông Nam Á khoản nợ như trên theo Hợp đồng hạn mức tín dụng số 0011.00416/HĐTD, phụ lục hợp đồng hạn mức tín dụng số 00.11.00416 PL 01 và Giấy nhận nợ ngày 01/07/2011.

- Buộc Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn phải tiếp tục trả nợ cho Ngân hàng TMCP Đông Nam Á số tiền nợ lãi, tiền phạt, phí phát sinh theo lãi suất quá hạn quy định tại Hợp đồng hạn mức tín dụng số 00.11.00416/HĐTD, phụ lục hợp đồng hạn mức tín dụng số 00.11.00416/PL 01 và Giấy nhận nợ ngày 01/07/2011 kể từ ngày 31/08/2020 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

- Kể từ ngày Quyết định bản án có hiệu lực pháp luật, nếu Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền gốc, lãi phát sinh thì Ngân hàng TMCP Đông Nam Á được quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án tiến hành kê biên, bán chuyển nhượng các tài sản bảo đảm của khoản vay nêu trên để thu hồi nợ cho Ngân hàng.

- Trong trường hợp số tiền phát mại/thu hồi từ các Tài sản nêu trên vẫn không đủ trả nợ cho Ngân hàng TMCP Đông Nam Á, thì Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi tất toán toàn bộ khoản vay.

* Bị đơn Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn - đại diện theo pháp luật bà Khâu Thị Thu Huyền trình bày: về thời gian ký kết các hợp đồng tín dụng và nội dung của hợp đồng đúng như nguyên đơn đã trình bày. Công ty xác nhận sau khi ký hợp đồng tín dụng Ngân hàng đã giải ngân cho công ty số tiền 5.900.000.000 đồng, Công ty đã nhận đủ số tiền 5.900.000.000đồng. Để bảo đảm cho khoản vay trên, phía công ty đã dùng 03 tài sản để thế chấp như ngân hàng trình bày. Trong quá trình vay nợ, phía công ty đã trả 900.478.481đ tiền nợ gốc và 444.699.80đ nợ lãi. Tuy nhiên, do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, công ty không thể tiếp tục thực hiện việc trả nợ, đề nghị ngân hàng phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đặng Văn Bưởi, bà Nguyễn Thị Thía do chị Đặng Phương Báu là đại diện theo ủy quyền trình bày: Nguồn gốc tài sản thế chấp thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 địa chỉ tại: Thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội, diện tích 410,6m2 có nguồn gốc là của ông B và vợ là bà Nguyễn Thị Thía đứng tên chủ sở hữu đất, được UBND huyện Ứng Hoà cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 395235 ngày 20/01/2009. Năm 2011, ông B xây nhà trên đất bị thiếu tiền và có ý định nhờ chị Huyền vay hộ tiền ngân hàng. Ông có đưa sổ đỏ nhà ông cho chị Huyền để làm thủ tục nhưng ngay sau đó ông đã yêu cầu chị Huyền trả lại số đỏ và ông không nhờ chị Huyền vay tiền nữa, chị Huyền có hứa hẹn sẽ trả lại cho ông nhưng không trả. Tuy nhiên, không biết bằng hình thức nào mà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này lại được sang tên cho anh Nguyễn Văn T là chồng của Chị Khâu Thị Thu H, mặc dù vợ chồng ông chưa hề ký bất kỳ hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất nào cho anh Nguyễn Văn T. Sau đó, năm 2011 chị Huyền đã làm thủ tục thế chấp tài sản này cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á để vay tiền cho Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tần Thiên Sơn. Gia đình ông không hề biết có việc sang tên sổ đỏ và vay nợ Ngân hàng. Khi biết sự việc gia đình bị lừa, ông và gia đình đã làm nhiều đơn tố cáo chị Huyền ở Công an huyện Ứng Hòa, sau đó hồ sơ được chuyển lên Công an quận Hoàn Kiếm giải quyết, quá trình giải quyết tại cơ quan Công an chị Huyền có nhiều văn bản chị Huyền thừa nhận giả mạo chữ ký của vợ chồng ông B trong Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 27/4/2011.

Ngày 25/12/2019, gia đình ông đã có đơn yêu cầu độc lập đề nghị tòa án tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 27/04/2011 giữa bên chuyển nhượng là ông Đặng Văn Bưởi và bà Nguyễn Thị Thía với bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn T là vô hiệu và đề nghị trả lại quyền sử dụng đất tại thửa đất số 162 tờ bản đồ số 02 tại địa chỉ: Thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội cho vợ chồng ông.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Khâu Văn Chung, bà Đặng Thị Hồng do anh Khâu Văn Viễn là đại diện theo ủy quyền trình bày: Nguồn gốc tài sản thể chấp thửa đất số 112 - tờ bản đồ số 04 địa chỉ tại: 58 phố Quang Trung, Thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội, diện tích 174,4m2 có nguồn gốc là do hộ gia đình ông Khâu Văn Chung đứng tên chủ sở hữu đất, được UBND huyện Ứng Hoà cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 414520 ngày 20/01/2009. Tuy nhiên, không biết bằng hình thức nào mà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này lại được sang tên cho Chị Khâu Thị Thu H, mặc dù vợ chồng, con cái ông chưa hề ký bất kì hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất nào cho Chị Khâu Thị Thu H. Chị Huyền cũng khẳng định chị đã giả mạo chữ ký của ông Chung và bà Hồng trong Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề ngày 25/01/2011. Chị Huyền cũng hứa hẹn nhiều lần với gia đình ông bà là sẽ trả lại sổ đỏ cho ông bà, nhưng đến này chị Huyền vẫn không thực hiện. Vì vậy, ngày 25/12/2019 gia đình ông đã có đơn yêu cầu độc lập đề nghị tòa án tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 25/01/2011 giữa bên chuyển nhượng là ông Khâu Văn Chung và bà Đặng Thị Hồng với bên nhận chuyển nhượng là bà Khâu Thị Thu Huyền là vô hiệu; đề nghị trả lại quyền sử dụng đất tại thửa đất số 112 tờ bản đồ số 04 tại địa chỉ: Thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội cho vợ chồng ông.

Quá trình giải quyết vụ án Anh Nguyễn Văn T (là chồng Chị Khâu Thị Thu H) đã được tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do, nên Tòa án không thu thập được ý kiến, tài liệu chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại bản án số 38/2020/KDTM-ST ngày 18/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội đã xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á đối với Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Tân Thiên Sơn.

2. Buộc Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Tân Thiên Sơn có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á tổng số tiền nợ theo Hợp đồng tín dụng số 00.11.00418/HĐTD, phụ lục hợp đồng hạn mức tín dụng số 00.11.00416/PL 01 và Giấy nhận nợ ngày 01/07/2011 tính đến ngày 18/9/2020 là 15.291.934.149đ (mười lăm tỉ, hai trăm chín mươi mốt triệu, chín trăm ba mươi tư nghìn, một trăm bốn mươi chín đồng), trong đó số tiền gốc phải trả lại là 4.999.521.519 đồng (Bốn tỷ, chín trăm chín mươi chín triệu, năm trăm hai mươi mốt nghìn, năm trăm mười chín đồng), lãi phải trả tính đến ngày 18.09.2020 là 10.292.412.630đ (mười tỷ, hai trăm chín mươi hai triệu, bốn trăm mười hai nghìn, sáu trăm ba mươi đồng).

3. Buộc Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Tân Thiên Sơn phải tiếp tục trả số tiền nợ lãi tính theo lãi suất quá hạn quy định tại Hợp đồng tín dụng số 00.11.00418/HĐTD, phụ lục hợp đồng hạn mức tín dụng ngày 01/07/2011 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á.

4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của gia đình ông Khâu Văn Chung, bà Đặng Thị Hồng và ông Đặng Văn Bưởi.

- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 25/01/2011 giữa bên chuyển nhượng là ông Khâu Văn Chung và bà Đặng Thị Hồng với bên nhận chuyển nhượng là bà Khâu Thị Thu Huyền vô hiệu.

Gia đình ông Khâu Văn Chung, bà Đặng Thị Hồng có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 112 tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội.

- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 27/04/2011 giữa bên chuyển nhượng là ông Đặng Văn Bưởi và bà Nguyễn Thị Thía với bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn T vô hiệu.

Ông Đặng Văn Bưởi có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội diện tích 410,6m2.

5. Hợp đồng thế chấp ngày 29/06/2011 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á và ông Nguyễn Văn T, bà Khâu Thị Thu Huyền vô hiệu một phần đối với tài sản thế chấp là Quyền sử dụng toàn bộ thửa đất số 112 tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 105207, vào sổ số 0013 QSDĐ/UH do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Khâu Văn Chung ngày 10/10/2003, được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Ứng Hòa xác nhận chuyển nhượng lại cho Chị Khâu Thị Thu H ngày 25/01/2011, diện tích 174,4m2 đất; và Quyền sử dụng toàn bộ thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội diện tích 410,6m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 395235, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H: 1933 do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Đặng Văn Bưởi và bà Nguyễn Thị Thía ngày 20/01/2009, được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Ứng Hòa xác nhận chuyển nhượng lại cho anh Nguyễn Văn T ngày 28/4/2011.

6. Trong trường hợp Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Tân Thiên Sơn không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán khoản tiền nêu trên thì Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho ngân hàng. Cụ thể là: Quyền sử dụng toàn bộ thửa đất số 797 tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 414520, số vào sổ H 01632 1980 do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Khâu Văn Chuyền ngày 20/01/2009, được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Ứng Hòa xác nhận chuyển nhượng lại cho bà Khâu Thị Thu Huyền ngày 24/12/2010, diện tích 100m2.

Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo và án phí theo quy định pháp luật.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 28/9/2020, Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm đề nghị chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng được xử lý tài sản bảo đảm là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 395235, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H: 1933 do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Đặng Văn Bưởi và bà Nguyễn Thị Thía ngày 20/01/2009, được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Ứng Hòa xác nhận chuyển nhượng lại cho anh Nguyễn Văn T ngày 28/04/2011 và Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 797 tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 414520, số vào sổ H 01632 1980 do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Khâu Văn Chuyền ngày 20/01/2009, được chuyển nhượng cho bà Khâu Thị Thu Huyền ngày 24/12/2010.

Tại phiên tòa hôm nay Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo và thống nhất xác nhận ngoài các tài liệu chứng cứ đã nộp cho Tòa án ra thì không còn tài liệu chứng cứ nào khác để nộp cho Tòa án và đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trình bày quan điểm và đề xuất hướng giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án từ thủ tục thụ lý vụ án, mở phiên tòa và tại phiên tòa xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Ngân hàng có đơn kháng cáo tuy nhiên quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm Ngày 6/4/2022 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử bị cáo Khâu Thị Thu Huyền về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với mức án là 13 năm tù giam; Về dân sự: đã xác định các hợp đồng mua bán 02 diện tích nhà đất là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội và quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 797, tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội vô hiệu; Buộc Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á phải trả lại cho ông B, bà T và ông Chung, bà Hồng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hai thửa đất trên. Xét thấy, hai tài sản thế chấp này đều đã được giải quyết bằng một bản án Hình sự sơ thẩm số 107/2022/HSST ngày 6/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Do đó căn cứ điểm c khoản 1 Điều 192 và điểm g khoản 1 điều 217 và căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á; Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á đối với yêu cầu xử lý 02 tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội và quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 797 tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội và đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của ông B, bà T; ông Chung, bà Hồng về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng 02 tài sản này vô hiệu.

Về án phí : Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả hỏi và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á làm trong thời hạn luật định. Người kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, nên việc kháng cáo là hợp lệ. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội giải quyết là đúng thẩm quyền.

Về người tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho các đương sự, nhưng tại phiên tòa hôm nay Bị đơn vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt; Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2].Về nội dung: Hội đồng xét xử xét thấy Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á và Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn đã ký Hợp đồng tín dụng số 00.11.00418/HĐTD, phụ lục hợp đồng hạn mức tín dụng số 00.11.00416/PL 01 và Giấy nhận nợ ngày 01/07/2011. Việc ký kết hợp đồng tín dụng, phụ lục hợp đồng và giấy nhận nợ của các bên về hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật, nên phát sinh hiệu lực đối với các bên.

Quá trình thực hiện hợp đồng Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á đã giải ngân cho Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn số tiền 5.900.000.000 đồng.

Quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều xác nhận Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn đã thanh toán trả cho Ngân hàng nợ gốc là 900.478.481 đồng và nợ lãi là 444.699.80đ. Tính đến ngày 18/9/2020 Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn còn nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á tổng số tiền nợ gốc, nợ lãi là 15.291.934.149 đồng, trong đó: nợ gốc là: 4.999.521.519 đống; Nợ lãi là: 10.292.412.630 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty cổ phần dịch vụ thương mại Tân Thiên Sơn phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á tổng số tiền nợ gốc, nợ lãi tính đến ngày 18/9/2020 là 15.291.934.149 đồng, trong đó: nợ gốc là: 4.999.521.519 đống; Nợ lãi là: 10.292.412.630 đồng là có căn cứ. Tuy nhiên mức lãi suất Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận theo yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á là quá cao. Nhưng sau khi xét xử các đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

*Tài sản đảm bảo cho khoản vay gồm:

- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 395235, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H: 1933 do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Đặng Văn Bưởi và bà Nguyễn Thị Thía ngày 20/01/2009, được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Ứng Hòa xác nhận chuyển nhượng lại cho anh Nguyễn Văn T ngày 28/04/2011. Theo Hợp đồng thế chấp số 1500.2011/HDTC ngày 29/6/2011 tại văn phòng công chứng Nguyễn Tú.

- Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 797 tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 414520, số vào sổ H 01632 1980 do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Khâu Văn Chuyền ngày 20/01/2009, được chuyển nhượng cho bà Khâu Thị Thu Huyền ngày 24/12/2010. Theo Hợp đồng thế chấp số 1500.2011/HDTC ngày 29/6/2011 tại văn phòng công chứng Nguyễn Tú.

- Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 112 tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 105207, vào sổ số 0013 QSDĐ/UH do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Khâu Văn Chung ngày 10/10/2003, được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Ứng Hòa xác nhận chuyển nhượng lại cho Chị Khâu Thị Thu H. Theo Hợp đồng thế chấp số 1500.2011/HDTC ngày 29/6/2011 tại văn phòng công chứng Nguyễn Tú.

Xét yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu được xử lý các tài sản bảo đảm trên để thu hồi nợ. Hội đồng xét xử xét thấy ngày 31/5/2021, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên tòa lần thứ nhất xét xử phúc thẩm vụ án này. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á đề nghị Tòa án hoãn phiên tòa và tạm đình chỉ giải quyết vụ án, với lý do hiện Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đang điều tra, giải quyết vụ án Khâu Thị Thu Huyền phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Ngày 02/7/2021, Phòng cảnh sát kinh tế - Công an thành phố Hà Nội có công văn gửi Tòa án với nội dung: Ngày 25/11/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàn Kiếm đã nhận được đơn tố giác tội phạm của ông Đặng Văn Bưởi nội dung tố giác bà Khâu Thị Thu Huyền có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của gia đình ông B là thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02, diện tích 410,6m2, địa chỉ: thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàn Kiếm đã thụ lý và giải quyết đơn.

Ngày 25/6/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hoàn Kiếm đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 272/CQĐT-ĐTTH, Quyết định khởi tố bị can số 259/CQĐT(ĐTTH) đối với bị can Khâu Thị Thu Huyền về tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.

Ngày 29/01/2021, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm đã ra Quyết định chuyển vụ án hình sự để điều tra theo thẩm quyền số 01 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hà Nội để điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 06/4/2022, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 107/2022/HS-ST của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã nhận định “….Bị cáo Khâu Thị Thu Huyền giả mạo chữ ký của ông Chung, ông B, bà T nên các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 17/2011 quyển số 01 ngày 25/01/2011 và hợp đồng số 65 quyển số 01 ngày 27/4/2011 ( chứng thực của Ủy ban nhân dân thị trấn Vân Đình) vô hiệu và quyết định:

1.Tuyên bố bị cáo Khâu Thị Thu Huyền phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" ………………………… 4. …..Buộc Ngân hàng TMCP Đông Nam Á trả lại: ông Khâu Văn Chung giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T105207, thửa đất số 112, tờ bản đồ số 4, tại thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) và trả lại ông Đặng Văn Bưởi, bà Nguyễn Thị Thía giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A0 395235, thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02, tại thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội.

Bản án hình sự sơ thẩm số 107/2022/HS-ST ngày 6/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã có hiệu lực pháp luật.

Như vậy, đối với 02 tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 112, tờ bản đồ số 4 tại thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây và quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa, Hà Nội mà Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á kháng cáo đề nghị được xử lý để thu hồi nợ đã được giải quyết trong vụ án hình sự và bản án hình sự sơ thẩm số 107/2022/HS-ST ngày 06/4/2022 đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 192 và điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu xử lý 02 tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 112, tờ bản đồ số 4 tại thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây và quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa, Hà Nội của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á và đình chỉ yêu cầu độc lập của ông Đặng Văn Bưởi, bà Nguyễn Thị Thía; ông Khâu Văn Chung, bà Đặng Thị Hồng về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố các Hợp đồng chuyển nhượng đối với hai tài sản này vô hiệu.

Đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng thửa đất số 797, tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 414520, số vào sổ H 01632 1980 do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Khâu Văn Chuyền ngày 20/01/2009, được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Ứng Hòa xác nhận chuyển nhượng lại cho bà Khâu Thị Thu Huyền ngày 24/12/2010. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng cho xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Sau khi xét xử sơ thẩm các đương sự không có kháng cáo Viện kiểm sát không có kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xét.

Từ những phân tích trên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á.

Tuy nhiên, bản án sơ thẩm tuyên không chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á nhưng về án phí sơ thẩm thì lại tuyên hoàn trả toàn bộ số tiền tạm ứng án phí Ngân hàng đã nộp là không đúng. Ngoài ra bản án sơ thẩm tuyên Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Tân Thiên Sơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 123.291.934 đồng là không đúng, vì đây là tranh chấp kinh doanh thương mại nên Công ty cổ phần thương mại dịch vụ Tân Thiên Sơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại chứ không phải án phí dân sự sơ thẩm. Bản án sơ thẩm còn buộc Chị Khâu Thị Thu H phải chịu 18.000.000 đồng; anh Nguyễn Văn T phải chịu 20.000.000 đồng là không đúng, vì quá trình giải quyết ông B, bà T và ông Chung, bà Hồng có đơn yêu cầu độc lập đề nghị Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng giữa các ông Bà và Chị Khâu Thị Thu H vô hiệu do chị Huyền giả mạo chữ ký của các ông bà. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Đặng Văn Bưởi, bà Nguyễn Thị Thía; ông Khâu Văn Chung, bà Đặng Thị Hồng với Chị Khâu Thị Thu H Huyền, anh Nguyễn Văn T vô hiệu, nên anh Tuấn, chị Huyền chỉ phải chịu án phí không giá ngạch theo quy định tại điểm a khoản 1,2 Điều 24 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Cấp sơ thẩm cần phải nghiêm túc rút kinh nghiệm về việc này.

Tuy nhiên như phân tích ở trên thì Tòa án đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu xử lý 02 tài sản thế chấp và đình chỉ đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Khâu Văn Chung, bà Đặng Thị Hồng; ông Đặng Văn Bưởi, bà Nguyễn Thị Thía vơi chị Khâu Thị Huyền, anh Nguyễn Văn T vô hiệu, nên các đương sự không phải chịu án phí đối với các yêu cầu này. Do vậy cần phải sửa án sơ thẩm về phần án phí.

Về án phí: Do sửa án sơ thẩm, nên người kháng cáo không phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 30, 220, 227, 228; điểm c khoản 1 Điều 192; điểm g khoản 1 Điều 217; khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 294,302,305,342,344; Khoản 1 Điều 350; khoản 1 Điều 351; 357; Điều 471,476,478,715; 718; khoản 2 Điều 719 Bộ luật dân sự năm 2005.

Áp dụng Điều 91 và Điều 98 Luật tổ chức tín dụng.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí.

Sửa bản án sơ thẩm số 38/2020/KDTM-ST ngày 18/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

1.Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á đối với Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Tân Thiên Sơn.

2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á đối với yêu cầu xử lý 02 tài sản bảo đảm là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 112, tờ bản đồ số 4 tại thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây và quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa, Hà Nội Đình chỉ yêu cầu độc lập của ông Đặng Văn Bưởi, bà Nguyễn Thị Thía; ông Khâu Văn Chung, bà Đặng Thị Hồng đối với yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 112, tờ bản đồ số 4 tại thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây và quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa, Hà Nội giữa ông B, bà T, ông Chung với bà Khâu Thị Thuy Huyền, ông Nguyễn Văn T vô hiệu.

3. Buộc Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Tân Thiên Sơn phải thanh toán trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á tổng số tiền nợ gốc, nợ lãi theo Hợp đồng tín dụng số 00.11.00418/HĐTD, phụ lục hợp đồng hạn mức tín dụng số 00.11.00416/PL 01 và Giấy nhận nợ ngày 01/07/2011 tính đến ngày 18/9/2020 là 15.291.934.149 đồng (mười lăm tỉ, hai trăm chín mươi mốt triệu, chín trăm ba mươi tư nghìn, một trăm bốn mươi chín đồng), trong đó số tiền nợ gốc là 4.999.521.519 đồng (Bốn tỷ, chín trăm chín mươi chín triệu, năm trăm hai mươi mốt nghìn, năm trăm mười chín đồng); Nợ lãi là: 10.292.412.630đ (mười tỉ, hai trăm chín mươi hai triệu, bốn trăm mười hai nghìn, sáu trăm ba mươi đồng).

Kể từ ngày 19/9/2020 Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Tân Thiên Sơn còn phải tiếp tục trả số tiền nợ lãi trên số dư nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng, phụ lục hợp đồng hạn mức tín dụng và Giấy nhận nợ cho đến khi trả hết nợ gốc cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á.

4. Trường hợp Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Tân Thiên Sơn không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán khoản tiền nêu trên, thì Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho ngân hàng là: Quyền sử dụng thửa đất số 797 tờ bản đồ số 04 thị trấn Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 414520, số vào sổ H 01632 1980 do UBND huyện Ứng Hòa cấp cho ông Khâu Văn Chuyền ngày 20/01/2009, được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Ứng Hòa xác nhận chuyển nhượng lại cho bà Khâu Thị Thu Huyền ngày 24/12/2010. Theo Hợp đồng thế chấp số 1500.2011/HDTC ngày 29/6/2011 tại văn phòng công chứng Nguyễn Tú.

Về án phí:

+ Án phí sơ thẩm: Công ty cổ phần dich vụ thương mại Tân Thiên sơn phải chịu 123.291.934 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

Hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á 62.600.000 đồng tiền tạm ứng án phí Ngân hàng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001101 ngày 15/1/2018 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông, Hà Nội.

Hoàn trả cho ông Khâu Văn Chung, bà Đặng Thị Hồng do anh Khâu Văn Viễn làm đại diện ủy quyền số tiền 8.700.000 đồng theo biên lai số 0008946 ngày 11/5/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông.

Án phí phúc thẩm: Hoàn trả cho ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á 2.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0009639 ngày 19/10/2020 của Chi cục thi hành án quận Hà Đông, Hà Nội

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 112/2022/KDTM-PT

Số hiệu:112/2022/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về