Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 11/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 11/2023/DS-ST NGÀY 27/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 27-6-2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 42/2022/TLST-DS ngày 14- 11-2022, về Tranh chấp hợp đồng tín dụng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2023/QĐXX-ST ngày 12-5-2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 15/2023/QĐST-DS ngày 06-6-2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐNÁ; địa chỉ: Số 198 Trần Quang Kh, phường LThT, quận HK, thành phố Hà Nội;

người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn T – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị; người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn H1 – Chức vụ: Chuyên viên xử lý nợ (Theo Giấy ủy quyền số 16218/2022/UQ-SeABank ngày 27-9-2022), có mặt.

- Đồng bị đơn: Vợ chồng anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1978 và chị Đinh Thị Th, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn Ngãi Đông, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, đều vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn Tr, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn Trấn Hải, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đề nghị giải quyết vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, phiên hòa giải và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Phạm Văn Hậu trình bày:

Ngày 28-3-2022, vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th đã ký với Ngân hàng Thương mại cổ phần ĐNÁ (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) Hợp đồng tín dụng số: REF2208400495/HDTD/HP5-NDH để vay số tiền 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng); loại tiền vay: VND; mục đích sử dụng tiền vay: Bù đắp mua/nhận chuyển nhượng nhà, căn hộ, đất…BĐS tại thửa đất số 138(1) tờ bản đồ 21b; thời hạn vay: 300 tháng kể từ ngày 29-3-2022 đến ngày 29-3-2047; lãi suất cho vay: Tại thời điểm giải ngân là 8,49%/năm áp dụng 12 tháng đầu tiên kể từ thời điểm giải ngân; lãi suất cho vay các kỳ tiếp theo điều chỉnh vào ngày làm việc đầu tiên của mỗi quý theo phương thức xác định như sau: Lãi suất VND kỳ hạn 13 tháng của sản phẩm tiết kiệm lĩnh lãi cuối kỳ đối với KHCN + Biên độ 2,99%/năm; lãi suất cho vay áp dụng với dư nợ gốc quá hạn: Bằng 150% lãi suất trong hạn áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn; lãi suất chậm trả bằng 10%/năm tính trên số dư lãi chậm tương ứng với thời gian chậm trả.

Ngân hàng đã tiến hành giải ngân cho vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th số tiền 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng) theo Hợp đồng tín dụng số: REF2208400495/HDTD/HP5-NDH và uỷ nhiệm chi ngày 29-3-2022.

Ngày 10-3-2022, vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th đã ký đơn đề nghị vay vốn và đề nghị kiêm hợp đồng hạn mức, phát hành, sử dụng thẻ tín dụng quốc tế dành cho khách hàng cá nhân với nội dung hạn mức tín dụng đề nghị 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

Để đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả vốn vay và các chi phí liên quan phát sinh, các bên đã ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: REF2208400495/HDTC/HP5-NDH ngày 28-3-2022, số công chứng 1401, quyển số 01/2022.TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thái Bình, giữa vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th (Bên thế chấp) và Ngân hàng (Bên nhận thế chấp), tài sản thế chấp là: Quyền sử dụng 360m2 đất tại thửa đất số 138(1), tờ bản đồ số 21b; địa chỉ thửa đất: Thôn Trấn Hải, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP791495, vào sổ cấp giấy số CH00336 do Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Bảo cấp ngày 22-11-2018 đứng tên ông Đào Quang Luân và vợ là bà Nguyễn Thị Duyên, được đính chính tại trang 3: “Ngày 28-02-2022 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Đức Huy, CCCD số 031078000553, vợ là bà Đinh Thị Thảo, CCCD số 031184007938; địa chỉ: Thôn Ngãi Đông, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; theo hồ sơ số: 00142.CN.001”. Hợp đồng thế chấp tài sản được đăng ký thế chấp theo quy định pháp luật.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng, mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, tạo điều kiện cho bên vay thanh toán nợ nhưng vẫn cố tình trì hoãn không chịu trả nợ cho Ngân hàng. Tính đến ngày 11-5-2023, vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th đã thanh toán được tổng số tiền là 38.389.979 đồng. Trong đó: Nợ gốc là 9.918.888 đồng; nợ lãi trong hạn là 28.365.664 đồng; nợ lãi quá hạn là 105.427 đồng.

Tạm tính đến ngày 27-6-2023, vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th còn nợ Ngân hàng tng số tiền là 2.245.553.654 đồng. Trong đó: Nợ gốc là 2.020.604.450 đồng; nợ lãi trong hạn là 205.919.465 đồng; nợ lãi quá hạn là 19.029.739 đồng. Sau đó, vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th không thanh toán nợ đúng hạn, mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, tạo điều kiện cho bên vay thanh toán nợ nhưng vẫn cố tình trì hoãn không chịu trả nợ cho Ngân hàng. Vì vậy, để đảm bảo thu hồi vốn vay, Ngân hàng yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo:

1. Buộc vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số: REF2208400495/HDTD/HP5- NDH ngày 28-3-2022 và thẻ tín dụng tính đến ngày 27-6-2023 với tổng số tiền là 2.245.553.654 đồng. Trong đó: Nợ gốc là 2.020.604.450 đồng; nợ lãi trong hạn là 205.919.465 đồng; nợ lãi quá hạn là 19.029.739 đồng và lãi, phí phát sinh từ ngày 28-6-2023 đến khi thanh toán hết toàn bộ khoản nợ.

2. Nếu vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khoản nợ nêu trên thì Ngân hàng đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo tuyên phát mại toàn bộ tài sản thế chấp là quyền sử dụng 360m2 đất và tài sản trên đất tại thửa đất số 138(1), tờ bản đồ số 21b; địa chỉ thửa đất: Thôn Trấn Hải, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP791495, vào sổ cấp giấy số CH00336 do Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Bảo cấp ngày 22-11-2018 đứng tên ông Đào Quang Luân và vợ là bà Nguyễn Thị Duyên, được đính chính tại trang 3: “Ngày 28-02- 2022 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Đức Huy, CCCD số 031078000553, vợ là bà Đinh Thị Thảo, CCCD số 031184007938, địa chỉ tại thôn Ngãi Đông, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; Theo hồ sơ số 00142.CN.001” theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: REF2208400495/HDTC/HP5-NDH ngày 28-3-2022, số công chứng 1401, quyển số 01/2022.TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thái Bình để thu hồi nợ cho Ngân hàng.

3. Nếu số tiền thu được từ bán/xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả nợ cho Ngân hàng thì vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng đến khi tất toán toàn bộ khoản vay.

Đồng bị đơn: Vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th vắng mặt toàn bộ quá trình tố tụng và không có quan điểm về việc giải quyết vụ án.

Tại Biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 29-3-2023 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Trần Văn Tr trình bày: Anh là hộ liền kề với thửa đất 136, tờ bàn đồ số 21b tại thôn Trấn Hải, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng (Là tài sản của vợ chồng anh H, chị Th thế chấp tại Ngân hàng), nguồn gốc diện tích 360m2 đất này là năm 2018 anh chuyển nhượng cho vợ chồng anh Đào Quang Luân và chị Nguyễn Thị Duyên, diện tích của thửa đất là 360m2 (Kích thức các cạnh là 12m x 30m), khi chuyển nhượng thì một phần móng nhà, công trình phụ, bể nước của anh có nằm trên phần diện tích đất 360m2. Khi đó các bên có thoả thuận nếu vợ chồng anh Đào Quang Luân, chị Nguyễn Thị Duyên có nhu cầu sử dụng thì anh phải có nghĩa vụ tháo rỡ các tài sản trên đất để bàn giao lại mặt bằng cho vợ chồng anh Luân, chị Duyên. Nay, anh Luân, chị Duyên đã chuyển nhượng lại cho vợ chồng anh H, chị Th; anh H, chị Th đã thế chấp tại Ngân hàng. Tr hợp anh H, chị Th không trả được nợ cho Ngân hàng mà Ngân hàng phát mại tài sản thế chấp thì anh sẽ tự nguyện tháo rỡ phần công trình và các tài sản của anh nằm trên tài sản thế chấp để bàn giao mặt bằng cho Ngân hàng.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa lần thứ 2 bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 116, 117, 118, 119, 274, 275, 280, 292, 295, 298, 299, 317, 318, 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự; Điều 167 Luật đất đai năm 2013; Điều 91 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng được sử đổi bổ sung năm 2017; khoản 1 Điều 8, Điều 49, Điều 51, Điều 57 Nghị định số: 21/2021/NĐ-CP ngày 19-3-2021 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; khoản 1 Điều 6 ; Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th phải trả cho Ngân hàng số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số: REF2208400495/HDTD/HP5-NDH ngày 28-3-2022 và thẻ tín dụng tính đến ngày 27-6-2023 với tổng số tiền là 2.245.553.654 đồng. Trong đó: Nợ gốc là 2.020.604.450 đồng; nợ lãi trong hạn là 205.919.465 đồng; nợ lãi quá hạn là 19.029.739 đồng và lãi, phí phát sinh từ ngày 28-6-2023 cho đến khi thanh toán hết toàn bộ khoản nợ. Nếu, vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khoản nợ nêu trên thì đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo tuyên phát mại toàn bộ tài sản thế chấp của Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: REF2208400495/HDTC/HP5-NDH ngày 28- 3-2022 để trả nợ cho Ngân hàng. Về án phí: Vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; trả lại cho Ngân hàng 37.000.000 (Ba mươi bảy triệu) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th có nơi cư trú tại xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng phải trả nợ gốc, lãi của Hợp đồng tín dụng số: REF2208400495/HDTD/HP5-NDH ký ngày 28-3-2022 để vay số tiền 2.000.000.000 đồng; mục đích sử dụng vay tiền: Bù đắp nhận chuyển nhượng nhà, đất. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đây là vụ án dân sự về tranh chấp Hợp đồng tín dụng và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đồng bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chấp hành không đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, mặc dù đã nhận được tống đạt các văn bản tố tụng của Toà án hợp lệ. Tại phiên tòa lần 2 đồng bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đồng bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

- Về nội dung vụ án:

[3] Căn cứ vào lời khai của các đương sự, các tài liệu chứng cứ do các đương sự cung cấp, các tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập được và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định: Giữa Ngân hàng với vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th đã ký với nhau Hợp đồng tín dụng số: REF2208400495/HDTD/HP5-NDH ngày 28-3-2022, với nội dung: Ngân hàng cho vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th vay số tiền 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng; loại tiền vay: VND; mục đích sử dụng vay tiền: Bù đắp nhận chuyển nhượng nhà, đất; thời hạn vay: thời hạn vay: 300 tháng kể từ ngày 29-3-2022 đến ngày 29- 3-2047; lãi suất cho vay: Tại thời điểm giải ngân là 8,49%/năm áp dụng 12 tháng đầu tiên kể từ thời điểm giải ngân; lãi suất cho vay các kỳ tiếp theo điều chỉnh vào ngày làm việc đầu tiên của mỗi quý theo phương thức xác định như sau: Lãi suất VND kỳ hạn 13 tháng của sản phẩm tiết kiệm lĩnh lãi cuối kỳ đối với KHCN + Biên độ 2,99%/năm; lãi suất cho vay áp dụng với dư nợ gốc quá hạn: Bằng 150% lãi suất trong hạn áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn; lãi suất chậm trả bằng 10%/năm tính trên số dư lãi chậm tương ứng với thời gian chậm trả; ngày 10-3- 2022, vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th đã ký đơn đề nghị vay vốn và đề nghị kiêm hợp đồng hạn mức, phát hành, sử dụng thẻ tín dụng quốc tế dành cho khách hàng cá nhân với nội dung hạn mức tín dụng đề nghị 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Để đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả vốn vay và các chi phí liên quan phát sinh các bên đã ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: REF2208400495/HDTC/HP5-NDH ngày 28-3-2022, số công chứng 1401, quyển số 01/2022.TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thái Bình, giữa vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th (Bên vay đồng thời là bên thế chấp) và Ngân hàng (Bên nhận thế chấp), tài sản thế chấp là: Quyền sử dụng 360m2 đất tại thửa đất số 138(1), tờ bản đồ số 21b; địa chỉ thửa đất: Thôn Trấn Hải, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP791495, vào sổ cấp giấy số CH00336 do Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Bảo cấp ngày 22-11-2018 đứng tên ông Đào Quang Luân và vợ là bà Nguyễn Thị Duyên, được đính chính tại trang 3: “Ngày 28-02-2022 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Đức Huy, CCCD số 031078000553, vợ là bà Đinh Thị Thảo, CCCD số 031184007938; địa chỉ: Thôn Ngãi Đông, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; theo hồ sơ số: 00142.CN.001”. Hợp đồng thế chấp tài sản được đăng ký thế chấp theo quy định pháp luật. Như vậy, tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản giữa các bên (nguyên đơn và bị đơn) đã được ký kết trên cơ sở tự nguyện, tự định đoạt, thỏa thuận, mục đích và nội dung thỏa thuận phù hợp với đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của luật, Hợp đồng thế chấp tài sản đã được chứng thực và đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của Bộ luật Dân sự; Luật đất đai và khoản 1 Điều 4 Nghị định163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Do đó, Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên đã có hiệu lực pháp luật, các bên phải có nghĩa vụ thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận tại hợp đồng.

[4] Thực hiện Hợp đồng tín dụng nêu trên Ngân hàng đã giải ngân cho bên vay là vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th số tiền là 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng theo uỷ nhiệm chi ngày 29-3-2022 và 30.000.000 đồng theo Thẻ tín dụng ngày 10-3-2022. Quá trình thực hiện hợp đồng vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do đó, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th phải trả nợ cho Ngân hàng số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số: REF2208400495/HDTD/HP5-NDH ngày 28-3-2022 và Thẻ tín dụng ngày 10-3-2022 là có căn cứ nên chấp nhận.

[5] Tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 27-6-2023, vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th còn nợ và phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền của Hợp đồng tín dụng số: REF2208400495/HDTD/HP5-NDH ngày 28-3-2022 và Thẻ tín dụng ngày 10-3-2022 là 2.245.553.654 đồng. Trong đó: Nợ gốc là 2.020.604.450 đồng; nợ lãi trong hạn là 205.919.465 đồng; nợ lãi quá hạn là 19.029.739 đồng và lãi phát sinh từ ngày 28-6-2023 đến khi thanh toán hết toàn bộ khoản nợ. Nếu vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khoản nợ nêu trên thì Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo phát mại toàn bộ tài sản thế chấp của Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: REF2208400495/HDTC/HP5-NDH ngày 28-3-2022 để thu hồi nợ cho Ngân hàng. Nếu số tiền thu được từ tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả nợ cho Ngân hàng thì vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th vẫn phải tiếp tục trả nợ cho Ngân hàng đến khi trả hết khoản vay.

[6] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được chấp nhận toàn bộ nên đồng bị đơn là vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Hoàn trả lại cho Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 266 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các điều 116; 117; 118; 119; 274; 275; 280; 292; 295, 298;

299; 317; 318; 463; 466; 468 của Bộ luật Dân sự; Căn cứ vào Điều 167 Luật đất đai năm 2013;

Căn cứ vào Điều 91 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng được sử đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 8, Điều 49, Điều 51, Điều 57 Nghị định 21/2021/NĐ-CP ngày 19-3-2021 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm;

khoản 1 Điều 6 ; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1 . Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

B u ộ c vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền của Hợp đồng tín dụng số: REF2208400495/HDTD/HP5-NDH ngày 28-3-2022 và Thẻ tín dụng ngày 10-3-2022 là 2.245.553.654 (Hai tỷ hai trăm bốn mươi lăm triệu năm trăm năm mươi ba nghìn sáu trăm năm mươi bốn) đồng.

Trong đó: Nợ gốc là 2.020.604.450 đồng; nợ lãi trong hạn là 205.919.465 đồng; nợ lãi quá hạn là 19.029.739 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 28-6-2023), vợ chồng Nguyễn Đức Huy, chị Đinh Thị Th còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số: REF2208400495/HDTD/HP5-NDH ngày 28-3-2022 và Thẻ tín dụng ngày 10-3-2022, cho đến khi trả xong khoản nợ này. Tr hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Nếu vợ chồng Nguyễn Đức Huy, chị Đinh Thị Th không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khoản nợ nêu trên thì Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo phát mại toàn bộ tài sản thế chấp là Quyền sử dụng 360m2 đất tại thửa đất số 138(1), tờ bản đồ số 21b; địa chỉ thửa đất: Thôn Trấn Hải, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP791495, vào sổ cấp giấy số CH00336 do Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Bảo cấp ngày 22-11-2018 đứng tên ông Đào Quang Luân và bà Nguyễn Thị Duyên, được đính chính tại trang 3: “Ngày 28-02-2022 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Đức Huy, CCCD số 031078000553, vợ là bà Đinh Thị Thảo, CCCD số 031184007938; địa chỉ: Thôn Ngãi Đông, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; theo hồ sơ số: 00142.CN.001”. Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: REF2208400495/HDTC/HP5- NDH ngày 28-3-2022, số công chứng 1401, quyển số 01/2022.TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thái Bình. Trong Tr hợp số tiền phát mại thu hồi từ tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả nợ cho Ngân hàng thì vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng cho đến khi trả hết khoản vay.

3. Khi phát mại tài sản thế chấp anh Trần Văn Tr phải có nghĩa vụ tháo rỡ các tài sản của mình nằm trên phần diện tích 360m2 đất tại thửa đất số 138(1), tờ bản đồ số 21b; địa chỉ thửa đất: Thôn Trấn Hải, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng để bàn giao mặt bằng cho Ngân hàng.

4. Về án phí: Vợ chồng Nguyễn Đức Huy, chị Đinh Thị Th phải chịu 76.911.073 (Bảy mươi sáu triệu chín trăm mười một nghìn không trăm bảy mươi ba) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho Ngân hàng 37.000.000 (Ba mươi bảy triệu) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo theo biên lai thu số 00002481 ngày 14-11-2022.

5. Về quyền kháng cáo: Ngân hàng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; vợ chồng anh Nguyễn Đức H, chị Đinh Thị Th và anh Trần Văn Tr vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong Tr hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 11/2023/DS-ST

Số hiệu:11/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về