TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, TP. ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 106/2021/DS-ST NGÀY 20/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 20 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 66/2021/TLST-DS ngày 03 tháng 6 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2021/QĐXXST-DS ngày 09/7/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 80/2021/QĐST-DS ngày 27/7/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 95/2021/QĐST-DS ngày 25/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 110/2021/QĐST-DS ngày 11/9/2021, giữa:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần G. Trụ sở: Lầu 8, 266 - 268 K, Phường 8, Quận 3, Thành phố Hồ chí Minh. Địa chỉ chi nhánh Sông Hàn: Số 240 đường T, quận H, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D- Chức vụ: Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Đình V- Chức vụ: Chuyên viên quản lý nợ (theo Giấy ủy quyền số 3977/2020/QĐ-PL ngày 28/12/2020 của Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP G; Giấy ủy quyền số 147/2020/GUQ-CNSH ngày 19/4/2021 và Giấy ủy quyền số 179/2021/GUQ-CNSH ngày 19/4/2021 của Giám đốc Ngân hàng TMCP G - chi nhánh Sông Hàn (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Ông Bùi Thanh T - Sinh năm: 1992. Địa chỉ: K382 H05/20 đường Đ, phường A, quận C, thành phố Đà Nẵng (Vắng mặt, không có lý do lần thứ hai).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần G (Sau đây gọi tắt là Ngân hàng G), bảng tự khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 28/9/2019, ông Bùi Thanh T có ký với Ngân hàng TMCP G - Chi nhánh Sông Hàn hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - các tài liệu được gọi chung là Hợp đồng).
Căn cứ vào thu nhập của ông Bùi Thanh T, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 50.000.000 đồng với mục đích: Tiêu dùng cá nhân, lãi suất 2,6%/tháng và được Ngân hàng quyết định áp dụng điều chỉnh phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông T đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 318.745.960 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến khi Ngân hàng khởi kiện thì ông T chỉ thanh toán cho Ngân hàng số tiền 285.069.000 đồng.
Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng ông T vẫn không có thiện chí trả nợ. Do ông T vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 2 của Bản điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng), ngày 23/01/2021, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 23 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).
Mặc dù ngân hàng đã thường xuyên đôn đốc, nhiều lần làm việc trực tiếp và yêu cầu ông T có trách nhiệm thanh toán ngay khoản nợ quá hạn, đồng thời Ngân hàng cũng tạo điều kiện về thời gian để ông T trả nợ, tuy nhiên ông T vẫn chưa thanh toán khoản nợ vay quá hạn cho Ngân hàng, vi phạm các điều khoản đã quy định tại Hợp đồng đã ký. Do đó, Ngân hàng G đã khởi kiện ông Bùi Thanh T .
Tại phiên tòa ngày hôm nay đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: Buộc ông Bùi Thanh T phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền 65.399.706 đồng; trong đó: dư nợ: 48.744.818 đồng, nợ lãi quá hạn: 16.654.888 đồng (tính đến ngày 20/9/2021) và ông T phải tiếp tục chịu lãi từ ngày 21/9/2021 cho đến khi thanh toán dứt điểm nợ theo mức lãi suất các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng.
Đối với bị đơn ông Bùi Thanh T : Mặc dù ông Bùi Thanh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như: Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Bùi Thanh T vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/5/2021 thì nguyên đơn Ngân hàng G yêu cầu bị đơn ông Bùi Thanh T trả số tiền nợ vay theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/9/2019 với mục đích vay là vay tiêu dùng. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 3 Điều 98 Luật Các tổ chức tín dụng, quan hệ pháp luật là tranh chấp dân sự về hợp đồng tín dụng.
[1.2] Về thẩm quyền: Bị đơn có địa chỉ tại: K382 H05/20 đường Đ, phường A, quận C, thành phố Đà Nẵng. Do đó, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp phát sinh giữa Ngân hàng G và ông Bùi Thanh T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
[1.3] Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ Khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn. Bị đơn ông Bùi Thanh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Bùi Thanh T .
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đối với khoản tiền dư nợ: 48.744.818 đồng, nợ lãi quá hạn: 16.654.888 đồng (tính đến ngày 20/9/2021), tổng cộng là 65.399.706 đồng:
[2.1] Ngày 28/9/2019, giữa ông T và Ngân hàng G có ký kết Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng để vay số tiền 50.000.000 đồng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, các chủ thể tham gia ký kết có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự. Hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết có hình thức và nội dung phù hợp với Điều 117 Bộ luật Dân sự và các Điều 23, 27 và 28 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước nên có hiệu lực đối với các bên đã tham gia giao dịch. Các chứng cứ mà nguyên đơn xuất trình như Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng là có cơ sở để xác định ông T có quan hệ tín dụng với Ngân hàng G.
[2.2] Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu buộc ông T thanh toán cho Ngân hàng G tổng số tiền 65.399.706 đồng, trong đó dư nợ là: 48.744.818 đồng và nợ lãi quá hạn là: 16.654.888 đồng (tính đến ngày 20/9/2021) và phải tiếp tục chịu lãi kể từ ngày 21/9/2021 cho đến khi thanh toán xong. HĐXX xét thấy: Sau khi được cấp thẻ tín dụng bị đơn ông Bùi Thanh T đã giao dịch với tổng số tiền 318.745.960 đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng và sau khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, ông chỉ thanh toán được cho Ngân hàng số tiền 285.069.000 (gốc và lãi). Như vậy, bị đơn ông T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, vi phạm thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/9/2019 đã ký kết với Ngân hàng G. Do đó, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng G đối với ông T là có cơ sở và phù hợp với các điều khoản trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ký kết ngày 28/9/2019, trong Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng cũng như phù hợp với quy định tại Điều 91 và khoản 1 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng, Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nên HĐXX chấp nhận.
[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Bùi Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 5% x 65.399.706 = 3.269.985 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần G số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Điều 26, 35, 39, 157,158, 227, 228, 271, 272 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 117 Bộ luật Dân sự;
- Điều 91, khoản 1 Điều 95 và điểm a khoản 3 Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng;
- Các Điều 13, 18, 23, 27 và 28 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng;
- Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2016 và công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần G về việc "Tranh chấp hợp đồng tín dụng" đối với ông Bùi Thanh T .
2. Buộc ông Bùi Thanh T phải trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần G tổng số tiền 65.399.706 đồng, trong đó dư nợ là: 48.744.818 đồng và nợ lãi quá hạn là: 16.654.888 đồng (tính đến ngày 20/9/2021).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Bùi Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.269.985 đồng (Ba triệu hai trăm sáu mươi chín nghìn chín trăm tám mươi lăm đồng).
Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần G số tiền tạm ứng án phí 1.653.812 đồng (Một triệu sáu trăm năm mươi ba nghìn tám trăm mười hai đồng) theo biên lai thu số 0009714 ngày 03/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
4. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 106/2021/DS-ST
Số hiệu: | 106/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về