TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 100/2023/DS-ST NGÀY 05/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 05 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 24/2023/TLST-DS ngày 27 tháng 01 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 263/2023/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng N4. Địa chỉ: Số B L, quận B, Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của Ngân hàng N4: Ông Nguyễn Thanh K – chức vụ: Trưởng phòng Kế hoạch kinh doanh – Chi nhánh T2. Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (theo giấy ủy quyền số 138/GUQ-NHNoTP ngày 05/9/2023) (Có mặt).
Bị đơn: Bà Lê Thị L, sinh năm 1957, địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Phạm Văn P, bà Phan Thị Thùy T, cùng địa chỉ: ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt);
2/ Bà Phạm Thị D, địa chỉ: ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt);
3/ Ông Phạm Văn C, bà Huỳnh Thị H, cùng địa chỉ: ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt);
4/ Ông Phạm Văn K1, bà Nguyễn Thị Mỹ N, cùng địa chỉ: ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt);
5/ Bà Phạm Thị N1, địa chỉ: ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt);
6/ Bà Phạm Thị N2, địa chỉ: ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 09/12/2022, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đại diện hợp pháp của nguyên đơn Ngân hàng N4 là ông Nguyễn Hữu M trình bày:
Do có nhu cầu vay vốn để nuôi tôm, ông Phạm Văn T1 và bà Lê Thị L có ký Hợp đồng tín dụng số LAV201101466/HĐTD ngày 18/5/2011 với Ngân hàng N4 - Chi nhánh T2. Tổng số tiền vay được nhận vào ngày 18/5/2011 là 118.000.000 đồng.
Để đảm bảo cho khoản vay, ông Phạm Văn T1 và bà Lê Thị L đã dùng tài sản của gia đình mình để thế chấp cho Ngân hàng N4 - Chi nhánh T2: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 16.825/HĐTC ngày 10/5/2010, tài sản thế chấp là: Quyền sử dụng đất thuộc thửa số 168+173+174+175+176+177+336, tờ bản đồ số 4, diện tích 23.195 m2, loại đất: T 300m2 + LNK 2.481m2 + Mùa 20.414m2 tọa lạc ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số H173842 do UBND huyện M cấp ngày 04 tháng 01 năm 1997 cho hộ ông Phạm Văn T1.
Trong thời gian thực hiện Hợp đồng tín dụng, thời hạn trả nợ khoản vay đã hết, Ngân hàng nhiều lần thông báo và mời bà Lê Thị L đến yêu cầu trả nợ, nhưng không đến trả nợ dẫn đến phát sinh nợ quá hạn kể từ ngày 19/3/2015.
Tạm tính đến ngày 05/9/2023 thì phía bị đơn còn nợ Ngân hàng số tiền là 332.173.277 đồng. Trong đó: Số tiền vốn là 118.000.000 đồng, lãi trong hạn là 163.482.444 đồng, lãi quá hạn là 50.690.833 đồng.
Nay Ngân hàng N4 yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Lê Thị L trả nợ (gốc và lãi phát sinh) cho Ngân hàng N4 theo Hợp đồng tín dụng số LAV201101466/HĐTD ngày 18/5/2011 số tiền là 332.173.277 đồng. Trong đó: Số tiền vốn là 118.000.000 đồng, lãi trong hạn là 163.482.444 đồng, lãi quá hạn là 50.690.833 đồng và lãi phát sinh sau ngày 05/9/2023 đến ngày trả tất nợ.
Trong trường hợp bị đơn không thanh toán được nợ cho Ngân hàng N4 thì yêu cầu Tòa án tuyên cho Ngân hàng được quyền phát mãi tài sản bảo đảm tiền vay theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên để thu hồi nợ.
Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp. Cụ thể là phần đất thế chấp tại thửa 174, tờ bản đồ số 4, diện tích 11.053 m2 có 04 ngôi mộ của người nhà bị đơn được chôn trên phần đất có diện tích 500m2, do đó nguyên đơn không yêu cầu phát mãi đối với phần diện tích 500m2 của 04 ngôi mộ.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn bà Lê Thị L trình bày: Bà thừa nhận vợ chồng bà có nợ của Ngân hàng N4 số tiền là 332.173.277 đồng. Trong đó: Số tiền vốn là 118.000.000 đồng, lãi trong hạn là 163.482.444 đồng, lãi quá hạn là 50.690.833 đồng. Nay Ngân hàng yêu cầu bà trả nợ thì do hoàn cảnh khó khăn nên bà không có khả năng trả nợ, bà đồng ý để Ngân hàng phát mãi tài sản thế chấp thu hồi nợ.
Đối với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác là ông Phạm Văn P, bà Phạm Thị D, ông Phạm Văn C, ông Phạm Văn K1, bà Phạm Thị N1, bà Phạm Thị N2, bà Phan Thị Thùy T, bà Nguyễn Thị Mỹ N, bà Huỳnh Thị H: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt và không thể hiện ý kiến bằng văn bản cho Toà án.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và đại diện nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 từ giai đoạn thụ lý cho đến khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án. Còn đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác chưa chấp hành đúng quy định pháp luật do vắng mặt không có lý do tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, phiên hòa giải. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã được Toà án triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà đến lần thứ hai nhưng vắng mặt, không có lý do. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời đề nghị tuyên án phí, chi phí thẩm định theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Văn P, bà Phạm Thị D, ông Phạm Văn C, ông Phạm Văn K1, bà Phạm Thị N3, bà Phạm Thị N2, bà Phan Thị Thùy T, bà Nguyễn Thị Mỹ N, bà Huỳnh Thị H đã được Toà án triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà lần thứ hai theo quy định nhưng vắng mặt, không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm d khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vụ án.
[2] Tại phiên tòa, nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp. Cụ thể là phần đất thế chấp tại thửa 174, tờ bản đồ số 4, diện tích 11.053 m2 có 04 ngôi mộ của người nhà bị đơn được chôn trên phần đất có diện tích 500m2, do đó nguyên đơn không yêu cầu phát mãi đối với phần diện tích 500m2 của 04 ngôi mộ. Nhận thấy việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện và không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu, căn cứ khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhận thấy: Ngân hàng N4 yêu cầu Toà án giải quyết buộc bị đơn có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N4 tổng số nợ tạm tính đến ngày 05/9/2023 là 332.173.277 đồng. Trong đó số tiền vốn là 118.000.000 đồng, lãi trong hạn là 163.482.444 đồng, lãi quá hạn là 50.690.833 đồng và lãi suất phát sinh theo hợp đồng đến khi thanh toán xong nợ. Nhận thấy hợp đồng tín dụng số LAV201101466/HĐTD ngày 18/5/2011 được ký giữa Ngân hàng N4 với ông Phạm Văn T1. Tuy nhiên ông Phạm Văn T1 đã chết trước khi nguyên đơn khởi kiện và theo tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp thể hiện việc ông T1 vay tiền là đại diện hộ gia đình, mục đích vay là để nuôi tôm, phát triển kinh tế gia đình, mặc dù bà L không ký hợp đồng tín dụng nhưng ông T1 có uỷ quyền cho bà L để thực hiện mọi giao dịch nhận tiền với Ngân hàng, đồng thời bà L cũng thừa nhận có vay tiền và hiện nay còn nợ Ngân hàng N4 số nợ tạm tính đến ngày 05/9/2023 là 332.173.277 đồng. Trong đó số tiền vốn là 118.000.000 đồng, lãi trong hạn là 163.482.444 đồng, lãi quá hạn là 50.690.833 đồng đến nay chưa thanh toán. Căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự đây là tình tiết không phải chứng minh, do đó có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử xác định bị đơn Lê Thị L có nợ nguyên đơn Ngân hàng N4 số nợ tạm tính đến ngày 05/9/2023 là 332.173.277 đồng. Trong đó số tiền vốn là 118.000.000 đồng, lãi trong hạn là 163.482.444 đồng, lãi quá hạn là 50.690.833 đồng.
[4] Nhận thấy khi thực hiện thỏa thuận vay tiền, nguyên đơn đã thực hiện việc giao đầy đủ số tiền như cam kết cho bị đơn, nhưng bị đơn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán số tiền vay cho nguyên đơn khi đến hạn, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nguyên đơn, vi phạm hợp đồng tín dụng các bên đã ký kết và vi phạm Điều 95 Luật tổ chức tín dụng. Do đó nguyên đơn Ngân hàng N4 yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền vốn là 118.000.000 đồng là có cơ sở để chấp nhận.
[5] Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn nhận thấy: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền lãi trong hạn và lãi quá hạn theo thoả thuận trong hợp đồng được ký kết giữa nguyên đơn và bị đơn là phù hợp theo quy định tại Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Do đó nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thanh toán số tiền lãi là có căn cứ chấp nhận và số tiền lãi bị đơn phải trả tạm tính đến ngày 05/9/2023 là 214.173.277 đồng. Trong đó lãi trong hạn là 163.482.444 đồng, lãi quá hạn là 50.690.833 đồng. Và bị đơn phải trả lãi phát sinh sau ngày 05/9/2023 đến ngày trả hết nợ.
[6] Đối với ông Phạm Văn T1 đã chết, nguyên đơn không có yêu cầu liên quan đến thực hiện nghĩa vụ khi ông T1 chết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Xét yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của nguyên đơn nhận thấy: Giữa nguyên đơn và bị đơn có ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 16.825/HĐTC ngày 10/5/2010 với tài sản thế chấp là: Quyền sử dụng đất thuộc thửa số 168, 173, 174, 175, 176, 177, 336, tờ bản đồ số 4, diện tích 23.195 m2 tọa lạc ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng được UBND huyện M cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số H173842 ngày 04 tháng 01 năm 1997 cho hộ ông Phạm Văn T1. Hợp đồng này đã được chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã H và đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện M đúng theo quy định. Vì vậy, trong trường hợp bị đơn không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán thì Ngân hàng N4 yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp để thu hồi nợ là có căn cứ và đúng quy định.
[8] Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 15/3/2023 thì trên phần đất thế chấp có hiện trạng như sau: Tại thửa 176 có căn nhà bà Lê Thị L đang quản lý sử dụng diện tích 10,5m x 9m, kết cấu 01 vách tường, 01 vách tol, 02 vách lá, cột bê tông đúc sẳn, nền đất, mái lợp tol thiếc, mái lá. Tài sản này thuộc quyền sử dụng của bị đơn nên đây cũng là tài sản thế chấp. Do đó cần buộc bị đơn có nghĩa vụ giao quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất là căn nhà để cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ là có căn cứ. Ngoài ra bị đơn có cho các con phần đất để xây dựng nhà ở cụ thể: Tại thửa 175 có căn nhà của ông Phạm Văn K1, bà Nguyễn Thị Mỹ N đang quản lý sử dụng có diện tích 9,2m x 20m, kết cấu mái lợp tol, cột đúc sẳn, 01 vách tường, 03 vách tol, nền gạch men, xi măng; Thửa 336 có căn nhà của ông Phạm Văn C, bà Huỳnh Thị H đang quản lý sử dụng có diện tích 9m x 11,5m, kết cấu 01 vách tường, 03 vách tol, cột đúc sẳn, mái lợp tol, nền gạch men, xi măng; Thửa 174 có căn nhà của ông Phạm Văn P, bà Phan Thị Thùy T đang quản lý sử dụng có diện tích 5m x 11m, kết cấu vách tol, cột đúc sẳn, mái lợp tol, nền đất và 04 ngôi mộ của người nhà bị đơn được chôn trên phần đất có diện tích 500m2. Xét thấy mặc dù bị đơn đã cho các con phần đất để sử dụng nuôi tôm và cất nhà ở, tuy nhiên phần đất vẫn đang thế chấp tại Ngân hàng, việc tặng cho trên các bên không có lập hợp đồng, không có giấy tờ hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cũng không có ý kiến gì. Do đó, cần buộc những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời căn nhà và bàn giao lại quyền sử dụng đất khi Cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản để thu hồi nợ là có căn cứ. Đồng thời dành quyền ưu tiên mua lại phần đất liên quan đến tài sản trên đất là các căn nhà của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi có nhu cầu là phù hợp. Đối với phần đất có 04 ngôi mộ diện tích có diện tích 500m2 nằm trong thửa 174 thì Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của Ngân hàng về việc không yêu cầu phát mãi khi xử lý tài sản thế chấp.
[9] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 700.000 đồng, bị đơn phải chịu. Do nguyên đơn đã nộp tạm ứng trước nên bị đơn phải có nghĩa vụ nộp để trả lại cho nguyên đơn, nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên.
[10] Về án phí: Bị đơn bà Lê Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 16.608.664đồng. Tuy nhiên, bà Lê Thị L sinh năm 1957, là người cao tuổi (trên 60 tuổi) và có đơn yêu cầu xin miễn nộp tiền án phí nên bị đơn thuộc trường hợp được miễn nộp án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Nguyên đơn Ngân hàng N4 không phải chịu án phí, được hoàn trả tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định.
[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 157, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 271; khoản 1 Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ Điều 325 của Bộ luật Dân sự 2015.
Căn cứ Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
Căn cứ Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N4 đối với bị đơn bà Lê Thị L.
1. Buộc bà Lê Thị L có nghĩa vụ thanh toán số tiền nợ cho Ngân hàng N4 tạm tính đến ngày 05/9/2023 với tổng số tiền là 332.173.277 đồng. Trong đó số tiền vốn là 118.000.000 đồng, lãi trong hạn là 163.482.444 đồng, lãi quá hạn là 50.690.833 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số LAV201101466/HĐTD ngày 18/5/2011.
2. Trong trường hợp bị đơn không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán thì Ngân hàng N4 có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 16.825/HĐTC ngày 10/5/2010 là Quyền sử dụng đất thuộc thửa số 168, 173, 174, 175, 176, 177, 336, tờ bản đồ số 4, diện tích 22.695 m2 tọa lạc ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng được UBND huyện M cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số H173842 ngày 04 tháng 01 năm 1997 cho hộ ông Phạm Văn T1 và tài sản trên đất tại thửa 176 là căn nhà của bà Lê Thị L có diện tích 10,5m x 9m, kết cấu 01 vách tường, 01 vách tol, 02 vách lá, cột bê tông đúc sẳn, nền đất, mái lợp tol thiếc, mái lá để ngân hàng thu hồi nợ.
3. Buộc ông Phạm Văn K1, bà Nguyễn Thị Mỹ N có trách nhiệm tháo dỡ, di dời căn nhà trên thửa đất số 175 có diện tích 9,2m x 20m, kết cấu mái lợp tol, cột đúc sẳn, 01 vách tường, 03 vách tol, nền gạch men, xi măng; Buộc ông Phạm Văn P, bà Phan Thị Thùy T có trách nhiệm tháo dỡ, di dời căn nhà trên thửa đất số 174 có diện tích 5m x 11m, kết cấu vách tol, cột đúc sẳn, mái lợp tol, nền đất. Buộc ông Phạm Văn C, bà Huỳnh Thị H có trách nhiệm tháo dỡ, di dời căn nhà trên thửa đất số 336 có diện tích 9m x 11,5m, kết cấu 01 vách tường, 03 vách tol, cột đúc sẳn, mái lợp tol, nền gạch men, xi măng giao lại phần diện tích đất sử dụng khi cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Dành quyền cho ông Phạm Văn P, bà Phạm Thị D, ông Phạm Văn C, ông Phạm Văn K1, bà Phạm Thị N1, bà Phạm Thị N2, bà Phan Thị Thùy T, bà Nguyễn Thị Mỹ N, bà Huỳnh Thị H được quyền ưu tiên mua lại quyền sử dụng đất liên quan đến tài sản trên đất là căn nhà khi có nhu cầu tại thửa đất số 174, 175, 336, tờ bản đồ số 4 tọa lạc ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. Ghi nhận sự tự nguyện của Ngân hàng N4 về việc không yêu cầu phát mãi đối với phần đất có 04 ngôi mộ diện tích 500m2 nằm trong thửa đất 174, tờ bản đồ số 4 tọa lạc ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
4. Khi Ngân hàng N4 có đơn yêu cầu thì bà Lê Thị L, ông Phạm Văn P, bà Phạm Thị D, ông Phạm Văn C, ông Phạm Văn K1, bà Phạm Thị N1, bà Phạm Thị N2, bà Phan Thị Thùy T, bà Nguyễn Thị Mỹ N, bà Huỳnh Thị H phải có nghĩa vụ bàn giao tài sản cho cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định.
5.Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn được miễn nộp tiền án phí.
Ngân hàng N4 không phải chịu án phí và được hoàn trả tiền tạm ứng án phí đã nộp là 7.943.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0002802 ngày 16/01/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
6. Về chi phí tố tụng: Bị đơn phải nộp chi phí tố tụng là 700.000 đồng. Do nguyên đơn Ngân hàng N4 đã nộp tạm ứng trước nên buộc bị đơn phải chịu số tiền 700.000 đồng để hoàn trả cho Ngân hàng N4.
7. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
8. Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 100/2023/DS-ST
Số hiệu: | 100/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về