TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 09/2024/DS-ST NGÀY 08/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 08/4/2024, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Cư Jút xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 180/2023/TLST-DS ngày 15/11/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2024/QĐXXST- DS ngày 01/3/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 31/2024/QĐST-DS ngày 18/3/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S (Viết tắt: S). Trụ sở: Số 266-268 N, phường 8, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Th - C/v: Phó phòng giao dịch C – có mặt;
Địa chỉ: Lô D1, khu công nghiệp T, huyện C, tỉnh Đăk Nông.
- Bị đơn: Chị Doãn Thị H, sinh năm 1991 – vắng mặt. Địa chỉ: Thôn 11, xã T, huyện C, tỉnh Đăk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngân hàng S chi nhánh Đắk Nông - Phòng giao dịch Cư Jút cho chị Doãn Thị H vay vốn, theo hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số: 992607 ký kết ngày 20/10/2017. Theo đó, chị Doãn Thị H đã kích hoạt thẻ và sử dụng thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 18.000.000 đồng. Lãi suất tại thời điểm làm thẻ là 15 %/ năm, đến ngày 05/01/2020 chị H không còn thuộc đối tượng chi lương qua S nên Ngân hàng đã nâng lãi suất lên 31.2%/năm; mục đích vay để tiêu dùng cá nhân. Quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt, chị H đã thực hiện giao dịch tổng số tiền là 35.100.000 đồng và đã thanh toán tổng số tiền 28.903.378 đồng. Trong đó: Tiền gốc 14.555.513 đồng, tiền lãi 12.440.463 đồng, tiền phí 1.907.402 đồng.
Sau đó, chị H không thực hiện thanh toán và đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ, S đã chấm dứt hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng và chuyển toàn bộ dư nợ gốc, nợ lãi và các khoản phí phát sinh sang dư nợ gốc quá hạn. S đã nhiều lần đôn đốc, làm việc trực tiếp với chị H để yêu cầu anh thanh toán các khoản tiền nợ quá hạn. Tuy nhiên, chị H vẫn không thực hiện nghĩa vụ, vi phạm các điều khoản trong hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký kết. Vì vậy, Ngân hàng S đã khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cư Jút buộc chị H phải có nghĩa vụ thanh toán cho S tổng số tiền tính đến ngày 08/4/2024 (ngày xét xử) là 53.128.247 đồng, trong đó: Nợ gốc là 20.544.487 đồng; tiền lãi trong hạn là 21.722.507 đồng, tiền lãi quá hạn là 10.861.253 đồng.
Tiếp tục tính lãi phát sinh kể từ ngày 09/04/2024 cho đến khi chị H thanh toán xong các khoản nợ cho S.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), sự tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng cũng như nội dung vụ án.
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã nghiêm túc thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình, bị đơn mặc dù đã được tống đạt các văn bản tố tụng đúng theo quy định của pháp luật nhưng không chấp hành, vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai không có lý do nên HĐXX, xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
Về án phí: Buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Ngân hàng S chi nhánh Đắk Nông - Phòng giao dịch C khởi kiện yêu cầu chị Doãn Thị H bị đơn có địa chỉ tại thôn 11, xã T, huyện C trả nợ gốc và lãi theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết. Vì vậy, đây là tranh chấp về dân sự, quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút theo quy định tại Điều 35; các điểm a, c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2]. Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để lấy lời khai, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn không chấp hành, vắng mặt không lý do nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được và phải đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa lần thứ nhất bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. HĐXX quyết định hoãn phiên tòa, phiên tòa được mở lại ngày 08/4/2024, tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, HĐXX căn cứ theo điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với bị đơn.
[2] .Về nội dung:
[2.1]. Về yêu cầu thanh toán tiền nợ gốc: Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số: 992607, được ký kết vào ngày 20/10/2017 giữa Ngân hàng S với chị H được ký kết trên cơ sở tự nguyện, không trái quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và tuân thủ đúng quy định của pháp luật về cả nội dung và hình thức. Quá trình thực hiện giao dịch các đương sự có đủ năng lực hành vi dân sự và tự nguyện ký kết, thỏa thuận như trong hợp đồng.
Do đó, hợp đồng trên là hợp pháp.
[2.2]. Căn cứ Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số: 992607, được ký kết ngày 20/10/2017 giữa Ngân hàng S với chị H, mức lãi suất cho vay 31,2%/năm là phù hợp với quy định. Từ ngày 05/10/2020, chị H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho Ngân hàng, do đó Ngân hàng đã chấm dứt Hợp đồng tín dụng và chuyển toàn bộ số tiền dư nợ gốc, nợ lãi và các khoản phí phát sinh sang dư nợ gốc quá hạn. Do đó, Ngân hàng S đã khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cư Jút buộc chị H phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ gốc và lãi cho S là có căn cứ.
[2.3]. Đối với yêu cầu tính lãi suất: Căn cứ khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; căn cứ lãi suất các bên thỏa thuận theo hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số: 992607, được ký kết ngày 20/10/2017, lãi suất tại thời điểm làm thẻ là 15 %/ năm, đến ngày 05/01/2020 do chị H không còn thuộc đối tượng chi lương qua S nên Ngân hàng đã nâng lãi suất lên 31.2%/năm. Tính đến ngày 08/4/2024 tiền lãi trong hạn là 21.722.507 đồng. Việc tính lãi suất trong hạn là có căn cứ nên cần chấp nhận.
[2.4]. Đối với yêu cầu tính lãi suất quá hạn: Tại mục 1.24 của Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng TMCP S quy định lãi suất quá hạn là mức lãi suất tối đa bằng 150% lãi suất trong hạn. Tính đến ngày 08/4/2024 số tiền lãi quá hạn mà chị H còn phải thanh toán cho ngân hàng là 10.861.253 đồng. Việc tính lãi suất quá hạn của Ngân hàng là phù hợp không trái quy định của luật nên cần chấp nhận.
[2.5] Về tài sản đảm bảo: Không thế chấp tài sản đảm bảo.
[2.6] Từ những phân tích nêu trên HĐXX xét thấy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của S, buộc chị Doãn Thị H phải có nghĩa vụ thanh toán cho S tồng số tiền tính đến ngày 08/4/2024 (ngày xét xử) là 53.128.247 đồng, trong đó: Nợ gốc là 20.544.487 đồng; tiền lãi trong hạn là 21.722.507 đồng, tiền lãi quá hạn là 10.861.253 đồng.
[3] Về án phí: Bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng Điều 357; Điều 466; Điều 468 của Bộ luật dân sự; Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP S (Viết tắt: S).
Buộc chị Doãn Thị H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng TMCP S tổng số tiền tính đến ngày 08/4/2024 (ngày xét xử) là 53.128.247 đồng, trong đó: Nợ gốc là 20.544.487 đồng; tiền lãi trong hạn là 21.722.507 đồng, tiền lãi quá hạn là 10.861.253 đồng.
Kể từ ngày 09/4/2024 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số: 992607, được ký kết ngày 20/10/2017.
Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bên phải thi hành án phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của ngân hàng cho vay và văn bản quy phạm pháp luật quy định về lãi suất có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh lãi suất.
2. Về án phí: Buộc chị Doãn Thị H phải nộp số tiền 2.656.000 đồng (làm tròn số) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả Ngân hàng TMCP S (S) số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.202.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000169 ngày 10/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông.
3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 09/2024/DS-ST
Số hiệu: | 09/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 08/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về