Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 09/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 09/2022/DS-ST NGÀY 13/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 13 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 279/2020/TLST-DS ngày 09 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2021/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 90/2021/QĐST-DS ngày 16 tháng 12 năm 2021 giữa:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần S Địa chỉ trụ sở chính: 266-268 A, phường A1, Quận A2, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm Trường T, sinh năm 1994 (có đơn xin xét xử vắng mặt), là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 430/2021/UQ-TTT ngày 08/01/2021) Bị đơn: Ông Trần Duy T, sinh năm: 1976 (vắng mặt) Thường trú: 69 B, Phường B1, Quận B2, Thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 20/8/2019 và quá trình giải quyết vụ án, đại diện nguyên đơn là ông Phạm Trường T trình bày:

Ngân hàng Thương mại cổ phần S (sau đây viết tắt là Ngân S) cho ông Trần Duy T vay tiền theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 13/9/2008 (bao gồm giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng). Căn cứ thu nhập của ông Trần Duy T, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng loại Visa, số thẻ: 472075-6156, hạn mức sử dụng là 50.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân, lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn theo bản các điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông Trần Duy T đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 184.604.364 đồng và đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 247.169.000 đồng. Số tiền trên được thanh toán áp dụng theo Điều 20 của bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng. Ông T không trả đủ số nợ gốc và lãi cho ngân hàng theo các điều khoản đã cam kết tại hợp đồng cấp thẻ tín dụng mặc dù ngân hàng đã thông báo nhiều lần. Do ông T vi phạm nghĩa vụ thanh toán, ngày 01/11/2016, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Dư nợ tính đến ngày 13/01/2022 là: 45.977.314 đồng, trong đó nợ gốc là 15.111.814 đồng và lãi quá hạn là 30.865.500 đồng.

Ngân hàng S yêu cầu ông T phải trả ngay toàn bộ số tiền nợ còn thiếu tạm tính đến ngày 13/01/2022 là 45.977.314 đồng (trong đó nợ gốc là 15.111.814 đồng, lãi quá hạn là 30.865.500 đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 14/01/2022 cho đến ngày trả hết nợ theo quy định của Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 13/9/2008.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ bị đơn là ông Trần Duy T đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt. Do đó, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn và không tiến hành hòa giải được.

* Tại phiên tòa:

Chủ tọa phiên tòa công bố: Đại diện nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do.

Chủ tọa công bố tóm tắt nội dung vụ án và tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thảo luận về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận B2 phát biểu:

Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến thời điểm hiện nay, thấy rằng Tòa án thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho các đương sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án là vi phạm khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa ngày hôm nay, bị đơn vắng mặt đến lần thứ 2 mà không có lý do, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét đơn khởi kiện của Ngân hàng S, xác định đây là vụ án dân sự về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Theo xác minh ngày 17/3/2020 của Công an Phường C9, Quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh; xác minh ngày 15/6/2020 của Công an Phường C4, Quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh; xác minh ngày 24/6/2020 của Công an Phường B1, Quận B2, Thành phố Hồ Chí Minh và thông tin trong Sổ hộ khẩu của ông T đã có cơ sở xác định ông Trần Duy T có hộ khẩu thường trú tại nhà số 69 B, Phường B1, Quận B2, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng hiện không còn cư trú tại đây và đi đâu không rõ. Địa chỉ ông T ghi trong giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng tín dụng là tại Quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng qua xác minh thể hiện ông Tân không đăng ký thường trú, tạm trú cũng như không thực tế cư trú tại đây, do đó xác định bị đơn có nơi cư trú cuối cùng tại Quận B2, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận B2 theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Đại diện nguyên đơn đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét các yêu cầu của nguyên đơn:

Hội đồng xét xử nhận thấy, qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của các đương sự đã có đủ cơ sở xác định:

Ngân hàng S và ông Trần Duy T có ký Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng kèm theo (ông T ký và Ngân hàng S xác nhận ngày 13/9/2008). Các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng. Hạn mức tín dụng là 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) với mục đích tiêu dùng cá nhân, lãi suất là 2,15 %/tháng (lãi suất trong hạn). Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông T đã thực hiện các giao dịch thẻ với tổng số tiền là 184.604.364 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, kể từ ngày kích hoạt thẻ cho tới nay ông T đã thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền là 247.169.000 đồng. Theo như bảng tóm tắt sao kê của Ngân hàng thì tính đến thời điểm ngày 13/01/2022 thì ông T còn nợ Ngân hàng số tiền là 45.977.314 đồng (gồm nợ gốc là 15.111.814 đồng và nợ lãi quá hạn tính đến ngày xét xử là 30.865.500 đồng).

Xét thấy, ông Tân đã sử dụng thẻ tín dụng do Ngân hàng S cấp để thanh toán tiêu dùng cá nhân với số tổng số tiền các lần giao dịch là 184.604.364 đồng. Số tiền này ông T phải thanh toán gốc, lãi theo như quy định tại Điều 20, Điều 22 Hợp đồng đã ký. Ông T đã trả được tổng cộng số tiền là 247.169.000 đồng nhưng vẫn còn thiếu các khoản nợ gốc, nợ lãi như các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của Ngân hàng. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông T phải trả nợ cho Ngân hàng tính đến ngày 13/01/2022 số tiền là 45.977.314 đồng (gồm nợ gốc là 15.111.814 đồng và nợ lãi quá hạn tính đến ngày xét xử là 30.865.500 đồng).

Số tiền lãi đã được nguyên đơn tính đúng theo thỏa thuận của hai bên tại hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 3 và Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 nên yêu cầu của nguyên đơn về tiền nợ tính đến ngày xét xử và toàn bộ tiền lãi phát sinh tiếp tục tính đến khi thanh toán xong nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng là có cơ sở chấp nhận.

Bị đơn đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, nội dung khởi kiện của nguyên đơn nhưng vắng mặt trong tất cả các giai đoạn tố tụng nên Tòa án giải quyết vụ án theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án qui định tại Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về án phí: Ông Trần Duy T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tính trên số tiền phải trả cho Ngân hàng S là 2.298.866 đồng. Trả lại cho Ngân hàng S số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[5] Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận B2 tại phiên tòa là phù hợp với phần nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 238, Điều 235, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273, của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự;

- Căn cứ khoản 2 Điều 3, Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Căn cứ Luật thi hành án dân sự.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần S.

1.1. Ông Trần Duy T có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền nợ theo Hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng giữa ông Trần Duy T và Ngân hàng Thương mại cổ phần S (gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng do ông T ký và Ngân hàng Thương mại cổ phần S xác nhận ngày 13/9/2008 và Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng kèm theo) số tiền là 45.977.314 đồng (bốn mươi lăm triệu, chín trăm bảy mươi bảy nghìn, ba trăm mười bốn đồng) (gồm nợ gốc là 15.111.814 đồng và nợ lãi quá hạn là 30.865.500 đồng).

1.2. Việc thanh toán tiền được thực hiện một lần tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

1.3. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản tiền nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 2.298.866 đồng (hai triệu, hai trăm chín mươi tám nghìn, tám trăm sáu mươi sáu đồng) do ông Trần Duy T chịu. Hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 785.138 đồng (bảy trăm tám mươi lăm nghìn, một trăm ba mươi tám đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2018/0035465 ngày 11/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về quyền kháng cáo: Ngân hàng Thương mại cổ phần S, ông Trần Duy T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 09/2022/DS-ST

Số hiệu:09/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về