Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 08/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÀNG LONG, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 08/2024/DS-ST NGÀY 22/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐNG TÍN DỤNG

Ngày 22 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 69/2023/TLST-DS, ngày 24 tháng 3 năm 2023, về vụ “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2024/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 37/2024/QĐHPTST-DS ngày 07 tháng 3 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần S (S1). Địa chỉ trụ sở: Số B - B, Đường N, phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D - Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền của bà D: Ông Đốc Văn Công N - Giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần S - Chi nhánh T3. Địa chỉ: Số E, đường N, Khóm C, Phường F, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Đỗ Văn Công N1: Anh Hồ Bảo T - Chuyên viên quản lý nợ Ngân hàng TMCP S - Chi nhánh T3 theo văn bản ủy quyền ngày 21/7/2023 (Vắng mặt có đơn xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Bùi Đức T1, sinh năm 1987 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khóm B, thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút lại một phần đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án anh Hồ Bảo T là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày như sau: Ngày 10/11/2016, anh Bùi Đức T1 có ký với Ngân hàng S hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, điều khoản, điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Căn cứ thu nhập của anh T1, ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng 20.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ anh T1 đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 268.022.558 đồng. Anh T1 đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền vốn gốc là 245.631.792 đồng và tiền lãi, phí là 23.221.758 đồng. Sau đó, đến tháng 7/2022 thì anh T1 không trả nợ nữa nên ngày 31/10/2022 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 22/3/2024 thì anh Bùi Đức T1 còn nợ Ngân hàng các khoản sau: vốn gốc 22.390.766 đồng; lãi quá hạn 14.786.864 đồng. Tổng cộng 37.177.630 đồng.

Nay anh yêu cầu anh Bùi Đức T1 trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền 37.177.630 đồng (Ba mươi bảy triệu, một trăm bảy mươi bảy nghìn, sáu trăm ba mươi đồng). Trong đó vốn gốc là 22.390.766 đồng; lãi quá hạn 14.786.864 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 23/3/2024 cho đến khi anh T1 trả xong khoảng nợ vay theo lãi suất quy định tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng mà anh T1 đã ký kết.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Bùi Đức T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T1 không đến Tòa. Vì vậy, không có lời khai của anh T1. Do đó Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt anh T1 và thông báo kết quả cho anh T1 theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, anh T vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; anh T1 vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Vị kiểm sát viên:

Về tố tụng: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án như: Thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp và tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng. Về vấn đề thu thập chứng cứ, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thời hạn chuẩn bị xét xử và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu cũng như việc gửi, tống đạt các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, vụ án được Tòa án thụ lý ngày 24/3/2023 đến ngày 21/02/2024 Tòa án mới ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử đã vi phạm Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Tại phiên tòa, anh T vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; anh T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

Về nội dung: Vị đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S. Buộc anh Bùi Đức T1 trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền tính đến ngày 22/3/2024 là 37.177.630 đồng (Ba mươi bảy triệu, một trăm bảy mươi bảy nghìn, sáu trăm ba mươi đồng). Trong đó, vốn gốc là 22.390.766 đồng; lãi quá hạn 14.786.864 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 23/3/2024 cho đến khi anh T1 trả xong khoảng nợ vay theo lãi suất quy định tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng mà anh T1 đã ký kết với Ngân hàng. Ngoài ra, V đề nghị nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng thương mại cổ phần S khởi kiện anh Bùi Đức T1 thanh toán khoản nợ vay còn nợ theo giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng do anh T1 đã ký kết với Ngân hàng ngày 10/11/2016. Qua xác minh từ chính quyền địa phương cho biết anh Bùi Đức T1 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Khóm B, thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh là phù hợp với giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và toàn bộ tài liệu, chứng cứ anh T1 cung cấp cho Ngân hàng thương mại cổ phần S khi đề nghị cấp thẻ. Do đó, Ngân hàng đã cung cấp đầy đủ và đúng địa chỉ của bị đơn anh Bùi Đức T1. Hiện nay, anh T1 không có mặt tại địa phương (Khóm B, thị trấn C) là cố tình giấu địa chỉ theo quy định tại Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP, ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh.

[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Hồ Bảo T và anh Bùi Đức T1 được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đua vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập đương sự nhưng anh T vắng mặt có đơn xin vắng mặt; anh T1 vắng mặt không có lý do. Tòa án nhân dân huyện Càng Long quyết định xét xử vụ án vắng mặt đương sự theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 10/11/2016 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S với anh Bùi Đức T1 xuất phát từ nhu cầu thực tế của các bên, hình thức và nội dung giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng tại thời điểm xác lập phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng là hợp đồng vay tài sản hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Sau khi được cấp thẻ anh T1 đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 268.022.558 đồng. Anh T1 đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền vốn gốc là 245.631.792 đồng và tiền lãi, phí là 23.221.758 đồng. Đến tháng 7/2022 anh T1 không thực hiện nghĩa vụ đúng như hợp đồng đã ký nên ngày 31/10/2022 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 23/8/2023 thì anh Bùi Đức T1 còn nợ Ngân hàng các khoản sau: Vốn gốc 22.390.766 đồng; lãi quá hạn 8.615.968 đồng. Tổng cộng 31.006.734 đồng. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, anh T1 đã được thông báo hợp lệ đến Tòa cung cấp chứng cứ, tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng đều vắng mặt không có lý do cũng không có ý kiến hay văn bản nào phản đối yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nên căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự thì việc anh T1 vay và nợ tiền theo Ngân hàng trình bày là sự thật. Do đó, anh T yêu cầu anh T1 trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền vốn gốc còn nợ là 22.390.766 đồng là có căn cứ chấp nhận.

[4] Về lãi suất: Xét yêu cầu tính lãi của Ngân hàng thương mại cổ phần S yêu cầu anh T1 trả tiền lãi quá hạn tính đến ngày 22/3/2024 là 14.786.864 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng được xác lập và thỏa thuận mức lãi suất trên cơ sở tự nguyện của cả hai bên, phù hợp quy định tại Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng nên cần được chấp nhận yêu cầu về tiền lãi của Ngân hàng đối với anh T1. Ngoài ra, kể từ ngày 23/3/2024, anh T1 còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng đã ký kết.

[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S được chấp nhận nên anh Bùi Đức T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.859.000 đồng (Một triệu, tám trăm năm mươi chín nghìn đồng).

Ngân hàng thương mại cổ phần S không phải chịu án phí sơ thẩm.

[6] Ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long là phù hợp quy định pháp luật được chấp nhận.

Vì các lễ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39; 147, 177, 179, 227, 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 274, 280, 351, 357, 466 và 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 91, khoản 1, 2 Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S.

Buộc anh Bùi Đức T1 trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền tính đến ngày 22/3/2024 là 37.177.630 đồng {Ba mươi bảy triệu, một trăm bảy mươi bảy nghìn, sáu trăm ba mươi đồng). Trong đó, vốn gốc là 22.390.766 đồng (Hai mươi hai triệu, ba trăm chín mươi nghìn, bảy trăm sáu mươi sáu đồng); lãi quá hạn 14.786.864 đồng (Mười bốn triệu, bảy trăm tám mươi sáu nghìn, tám trăm sáu mươi bốn đồng).

Kể từ ngày 23/3/2024, anh Bùi Đức T1 còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chua thanh toán theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 10/11/2016 cho đến khi thanh toán hết nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần S.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc anh Bùi Đức T1 phải chịu 1.859.000 đồng (Một triệu, tám trăm năm mươi chín nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần S 648.000 đồng (Sáu trăm bốn mươi tám nghìn đồng) tạm ứng án phí do anh Châu Thế T2 nộp theo biên lai thu tiền số: 0013851, ngày 28/3/2023 do Chi cục thi hành án dân sự huyện Càng Long thu.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho các đung sự biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 08/2024/DS-ST

Số hiệu:08/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Càng Long - Trà Vinh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về