TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI LAI, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 06/2021/KDTM-ST NGÀY 21/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong ngày 21 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Thới Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2019/TLST- KDTM ngày 15 tháng 7 năm 2019 về: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 543/2021/QĐXXST - DS ngày 19 tháng 10 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP NT VN Địa chỉ: Số 198 Trần Q K, phường Lý Thái T, quận Hoàn K, thành phố H. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Hoàng H; Chức vụ: Phó Trưởng Phòng giao dịch quận Ô Môn. Theo văn bản ủy quyền số 11/UQ-TCT ngày 05/7/2021.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1988. (Vắng mặt) Bà Ngô Thị U, sinh năm 1989. (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp Trường N 4, xã Trường X A, huyện T, thành phố C.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1940. (Xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: ấp Trường N 4, xã Trường X A, huyện T, thành phố C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Phía nguyên đơn – Ngân hàng TMCP NT VN yêu cầu ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U trả cho Ngân hàng tổng số tiền tính đến ngày 12/09/2018 (tiền lãi tiếp tục phát sinh) là 1.310.116.850 (Một tỷ ba trăm mười triệu một trăm mười sáu nghìn tám trăm năm mươi) đồng, trong đó gốc: 1.290.000.000 đồng, nợ lãi 20.116.850 đồng (trong đó lãi phạt: 4.782.329 đồng) và toàn bộ các khoản lãi, lãi quá hạn, phí phát sinh cho đến khi ông K và bà U thanh toán xong toàn bộ nghĩa vụ theo hợp đồng tín dụng hạn mức số 134/ NHNT ký ngày 07/8/2017.
Trường hợp ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng TMCP NT VN thì yêu cầu phát mãi tài sản bảo đảm của ông K và bà U đang thế chấp cho Ngân hàng để thu hồi nợ theo hợp đồng thế chấp số 53/2017/VCBTCT-PGD ngày 07/8/2017. Cụ thể: Đất tọa lạc tại ấp Trường Ninh 4, xã Trường Xuân A, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H364475, số vào sổ cấp GCN 00206/QSDĐ do Uỷ ban nhân dân huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ nay là huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/3/1996. Sau khi tiến hành kê biên phát mãi tài sản của ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U để thu hồi nợ mà chưa thu hết nợ vay, Ngân hàng TMCP NT VN yêu cầu Tòa án tuyên buộc ông Nguyễn Văn K tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ vay theo hợp đồng tín dụng số 134/NHNT ngày 07/8/2017 tại Ngân hàng NT VN.
Đại diện theo ủy quyền của phía nguyên đơn trình bày: Ngân hàng TMCP NT VN– Chi nhánh Tây Đô – PGD Ô Môn đã cho ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U vay vốn để kinh doanh lúa gạo, nguồn trả nợ từ doanh thu mua bán lúa gạo. Cụ thể thông tin về khoản vay như sau:
+ Hợp đồng tín dụng số 134/ NHNT ký ngày 07/8/2017.
+Thời hạn duy trì hạn mức cho vay: 12 tháng.
+ Thời hạn vay 06 tháng/ GNN + Số tiền đã giải ngân: 1.300.000.000 đồng (theo giấy nhận nợ số 44 ký ngày 12/02/2018) Để đảm bảo cho khoản vay trên, ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U đã dùng tài sản thuộc sở hữu của mình là quyền sử dụng đất diện tích 27.090 m2 thuộc số thửa 528 tờ bản đồ số 13 và 122, tờ bản đồ 11 tọa lạc tại ấp Trường Ninh 4, xã Trường Xuân A, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 000206 điều chỉnh trang 4 cho ông Nguyễn Văn K đứng tên ngày 19/09/2007. Ông K và bà U đã ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 53/2017/VCBTCT-PGD ngày 07/8/2017 để thế chấp tài sản tại thửa đất 528 và thửa 122 và được đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật.
Qúa trình vay ông K và bà U đã không trả nợ đúng hạn nên đã chuyển sang nợ quá hạn ngày 14/8/2018. Tính đến ngày 21/12/2021 ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U còn nợ lại Ngân hàng TMCP NT VN số tiền tổng cộng là 889.001.215 đồng. Trong đó nợ vốn gốc là 479.782.696 đồng; Nợ lãi trong hạn là 274.735.634; Nợ lãi quá hạn là 134.482.885 đồng. Nay Ngân hàng TMCP NT VN yêu cầu ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U trả cho Ngân hàng tổng số tiền tính đến ngày 21/12/2021 là 889.001.215 đồng. Trong đó nợ vốn gốc là 479.782.696 đồng; Nợ lãi trong hạn là 274.735.634; Nợ lãi quá hạn là 134.482.885 đồng và toàn bộ các khoản lãi, lãi quá hạn, phí phát sinh cho đến khi ông K và bà U thanh toán xong toàn bộ nghĩa vụ theo hợp đồng tín dụng hạn mức số 134/ NHNT ký ngày 07/8/2017.
Trường hợp ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng TMCP NT VN thì yêu cầu phát mãi tài sản bảo đảm của ông K và bà U đang thế chấp cho Ngân hàng để thu hồi nợ theo hợp đồng thế chấp số 53/2017/VCBTCT-PGD ngày 07/8/2017.
Đối với ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U không có mặt theo thông báo và triệu tập của Tòa án, không gửi văn bản ghi ý kiến cho Tòa án nên không có lời khai.
Ông Nguyễn Văn C (người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) có lời khai: Ông là cha ruột của ông Nguyễn Văn K, ông K là con út trong gia đình và sống chung nhà với ông. Tuy nhiên, hiện nay vợ chồng K đã đi lao động ở Đài Loan. Ông K và bà U biết việc khởi kiện của Ngân hàng nhưng không về được do cố gắng lao động để gửi tiền trả nợ cho Ngân hàng TMCP NT VN. Hàng tháng, ông K, bà U đều có gửi cho ông số tiền cố định là 20.000.000 đồng để ông trả nợ cho Ngân hàng. Ông không nhớ số tiền đã trả cho Ngân hàng là bao nhiêu nhưng nợ gốc còn khoảng 600.000.000 đồng (ông sẽ cung cấp chứng từ, phiếu thu trả nợ hàng tháng cho Tòa án). Tài sản thế chấp đảm bảo khoản vay gồm thửa 528 diện tích 25.950 m2, loại đất 2L tờ bản đồ số 13 hiện nay do ông đang quản lý sử dụng mà không chuyển quyền, cầm cố cho ai khác; Còn thửa 122 diện tích 300 m2 T và 840 m2 LNK, tờ bản đồ 11 hiện do ông và gia đình các con gồm: Nguyễn Văn S, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn B cất nhà sinh sống. Ông yêu cầu Tòa án không đưa các hộ gồm: Nguyễn Văn S, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn B vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vì những người này đã đi lao động ở Đài Loan không có ai ở địa phương và ông sẽ đại diện quyết định. Nếu trường hợp không thanh toán được nợ cho nguyên đơn, phải phát mãi tài sản thì ông không đồng ý, do ông Khôn và bà U và gia đình ông đang cố gắng trả dứt nợ để không phải phát mãi tài sản thế chấp. Ông yêu cầu nguyên đơn cho thêm thời gian để phía gia đình tất toán dần hết số nợ. Ông không có yêu cầu độc lập gì trong vụ án.
Phát biểu ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán cũng như Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật. Riêng bị đơn không có mặt theo thông báo và triệu tập của Tòa án là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.
Kiến nghị: Tòa án khắc vụ việc vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Văn C là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có đơn xin xét xử vắng mặt; Ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U là bị đơn trong vụ án được triệu tập xét xử hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai. Tòa án căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt là phù hợp.
[2] Tại phiên tòa phía nguyên đơn là Ngân hàng TMCP NT VNcó đại diện theo ủy quyền là ông Đặng Hoàng Hưng trình bày yêu cầu ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U có trách nhiệm trả số tiền vốn gốc, lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 134/NHNT ngày 07/8/2017 tổng cộng số nợ chưa thanh toán tính đến ngày 21 tháng 12 năm 2021 là 889.001.215 đồng. Trong đó nợ vốn gốc là 479.782.696 đồng; Nợ lãi trong hạn là 274.735.634; Nợ lãi quá hạn là 134.482.885 đồng và phía nguyên đơn đã cung cấp được chứng cứ chứng minh nghĩ nên chấp nhận.
[3] Về yêu cầu trường hợp ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ nêu trên thì Ngân hàng TMCP NT VN có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự tiến hành kê biên, phát mãi tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp số 53/2017/VCBTCT-PGD ngày 07/8/2017 giữa Ngân hàng TMCP NT VNvới ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U để thu hồi nợ. Nếu số tiền thu được từ bán/xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả nợ cho Ngân hàng TMCP NT VNthì ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng cho đến khi tất toán toàn bộ khoản vay cũng là yêu cầu hợp pháp và hợp lý nên cần được chấp nhận.
[4] Đối với ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U sau khi ký kết hợp đồng tín dụng với Ngân hàng đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán, không có mặt theo thông báo và triệu tập của Tòa án thể hiện sự trốn tránh nghĩa vụ trả nợ nên Hội đồng xét xử cần buộc ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U phải có trách nhiệm trả nợ theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ thể tại phiên tòa sơ thẩm là đúng thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật.
[5] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Cần buộc ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U chịu nộp theo quy định của pháp luật.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng:
Điều 30, 35, 91, 92, 227, 232 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 91, 94 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP NT VN. Buộc ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U có trách nhiệm liên đới trả cho Ngân hàng TMCP NT VN số tiền vốn gốc, lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 134/NHNT ngày 07/8/2017 số nợ chưa thanh toán tính đến ngày 21 tháng 12 năm 2021 là 889.001.215 (tám trăm tám mươi chín triệu không trăm lẻ một nghìn hai trăm mười lăm) đồng. Trong đó nợ vốn gốc là 479.782.696 đồng; Nợ lãi trong hạn là 274.735.634; Nợ lãi quá hạn là 134.482.885 đồng.
Kể từ ngày 22/12/2021 đối với số tiền nợ gốc chưa trả, thì bên phải thi hành án còn phải tiếp tục trả lãi theo mức lãi suất được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 134/NHNT ngày 07/8/2017 nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cho vay của Ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán cho đến khi thi hành án xong.
Trường hợp ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U không trả được nợ thì Ngân hàng TMCP NT VN có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự phát mãi tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 53/2017/VCBTCT-PGD ngày 07/8/2017 giữa Ngân hàng TMCP NT VNvới ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U để thu hồi nợ. Trường hợp số tiền thu được từ bán/xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả nợ cho Ngân hàng TMCP NT VN thì ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng cho đến khi trả xong nợ.
Về án phí: Buộc ông Nguyễn Văn K và bà Ngô Thị U có trách nhiệm liên đới chịu nộp 38.670.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Ngân hàng TMCP NT VN không phải chịu án phí nên được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí là 25.651.753 đồng theo biên lai thu tiền số 009483 ngày 28/9/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật Thi hành án dân sự.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án nếu xin Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử theo trình tự phúc thẩm. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, tống đạt hợp lệ bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã, phường nơi đương sự cư trú./
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 06/2021/KDTM-ST
Số hiệu: | 06/2021/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Lai - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 21/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về