TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 04/2024/KDTM-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 109/2023/TLST- DS ngày 17 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2024/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2024/QĐST-DS ngày 14 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đ(tên viết tắt là S); Địa chỉ trụ sở chính: Số 25 T, Phường P, Quận H, Thành phố H. Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn T, sinh năm 1970 - Chức danh: Chủ tịch Hội đồng quản trị S.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1982, chức vụ: Chuyên viên cao cấp Xử lý nợ - Ngân hàng TMCP Đ; địa chỉ: Số 25 T, Phường P, Quận H, Thành phố H; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 68/2022/UQ-S ngày 14/01/2022 và số 17717/2022/UQ-S ngày 17/10/2022). Có mặt.
- Bị đơn: Ông Hoàng Văn G, sinh năm 1982 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn Đ, xã l, huyện T, thành phố H. Đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 17/10/2022, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn (S) trình bày:
Ngày 23/7/2018, ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L (bên vay) và Ngân hàng TMCP Đ- Chi nhánh H (bên cho vay) đã ký kết Hợp đồng tín dụng từng lần số: REF1820100035/HĐTD/HAIPHONG-HVG với các nội dung cơ bản sau: S đồng ý cho ông G và bà L vay số tiền là 800.000.000 đồng; S đã giải ngân bằng hình thức chuyển khoản cho ông G và bà L số tiền 800.000.000 đồng theo Giấy nhận nợ ngày 24/7/2018; Mục đích vay bổ sung vốn nhập hàng kinh doanh; Thời hạn vay tối đa 60 tháng kể từ ngày 27/7/2018 đến ngày 27/7/2023; Lãi suất cho vay tại thời điểm giải ngân là 8,9%/năm, lãi suất này sẽ được cố định trong vòng 12 tháng kể từ ngày giải ngân. Hết thời hạn 12 tháng, lãi suất cho vay trong hạn sẽ được điều chỉnh vào ngày làm việc đầu tiên của mỗi quý khi có sự thay đổi của lãi suất. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn và được áp dụng đối với dư nợ gốc quá hạn. Lãi chậm trả bằng 10%/năm và được áp dụng đối với dư nợ lãi chậm trả. Ngày 24/7/2019 S đã tiến hành giải ngân cho ông G và bà L số tiền 800.000.000đồng theo giấy nhận nợ đã ký.
Tài sản thế chấp để bảo đảm cho khoản vay là: Quyền sử dụng diện tích 120m2 đất ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 660A, tờ bản đồ số 04, tại thôn Đầu Cầu, xã Lập Lễ, huyện T, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 308457, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 01430 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 02/12/2014 cho người sử dụng là ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L. Tài sản này được thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 23/7/2018, số công chứng 2981 quyển số 01/2018.TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Hường và được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là Văn Phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện T theo đúng quy định của pháp luật.
Quá trình thực hiện hợp đồng, tính đến ngày 29/3/2024 ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L đã trả được cho S tổng số tiền là 889.220.303 đồng (Trong đó: Trả nợ gốc là 662.359.686 đồng, lãi trong hạn là 223.812.213 đồng, lãi quá hạn là 3.048.404 đồng). Bên vay đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ và để phát sinh nợ quá hạn từ kỳ trả nợ ngày 05/5/2022 đến nay.
Tính đến ngày 29/3/2024 ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L còn nợ S tổng số tiền là 198.399.594 đồng (trong đó, nợ gốc là: 137.640.314 đồng, nợ lãi trong hạn là: 18.540.182 đồng, nợ lãi quá hạn là: 42.219.098 đồng). Kể từ thời điểm khoản vay phát sinh nợ quá hạn, S đã nhiều lần đôn đốc, yêu cầu ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L trả nợ cho S nhưng ông G và bà L vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Trên cơ sở những nội dung đã trình bày như trên, S đề nghị Tòa án xem xét giải quyết những nội dung như sau:
1. Buộc ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L phải trả cho S tổng số tiền còn nợ tạm tính đến ngày 29/3/2024 là 198.399.594 đồng (trong đó, nợ gốc là: 137.640.314 đồng, nợ lãi trong hạn là: 18.540.182 đồng, nợ lãi quá hạn là:
42.219.098 đồng) và tiền lãi, phí phát sinh theo lãi suất trong hạn, kể từ ngày 30/3/2024 cho đến khi thanh toán hết nợ cho S theo mức lãi suất nợ quá hạn quy định tại hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ mà các bên đã ký kết.
2.Trường hợp ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thực hiện không đầy đủ thì S được quyền đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên phát mại tài sản thế chấp sau đây để xử lý thu hồi toàn bộ nợ cho S: Quyền sử dụng diện tích 120m2 đất ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 660A, tờ bản đồ số 04, tại thôn Đầu Cầu, xã Lập Lễ, huyện T, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 308457, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 01430 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 02/12/2014 cho người sử dụng là ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L. Tài sản này được thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 23/7/2018, số công chứng 2981 quyển số 01/2018.TP/CC- SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Hường, thành phố H.
3. Trường hợp sau khi xử lý tài sản bảo đảm nếu không đủ để trả hết nợ thì ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả hết nợ cho S.
Các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông Hoàng Văn G trình bày:
Năm 2018, vợ chồng ông (vợ ông là bà Nguyễn Thị L) vay của S số tiền 800.000.000 đồng để bổ sung vốn nhập hàng kinh doanh, vợ chồng ông đã được S giải ngân đủ số tiền trên. Vợ chồng ông ký kết hợp đồng tín dụng với S trên tinh thần tự nguyện. Ông thừa nhận khoản vay nợ và tài sản bảo đảm cho khoản vay như người đại diện của S trình bày như trên là đúng. Quá trình thực hiện hợp đồng do làm ăn kinh tế khó khăn nên đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nay ông đề nghị S tạo điều kiện cho vợ chồng anh được trả dần số nợ trên.
Bà Nguyễn Thị L mặc dù đã được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Toà án nhưng đều vắng mặt và không trình bày quan điểm của mình.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án như sau:
- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật; bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định pháp luật, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn tổng số tiền nợ gốc, nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn tính đến ngày xét xử sơ thẩm, kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm bị đơn còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc, nếu bị đơn không trả được nợ thì nguyên đơn được quyền đề nghị cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại toàn bộ tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ cho nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng, trong suốt quá trình giải quyết vụ án Ngân hàng chỉ cung cấp được hợp đồng tín dụng thể hiện mục đích vay vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh không cung cấp được giấy phép đăng ký kinh doanh hay bất cứ tài liệu, chứng cứ nào khác thể hiện bị đơn vay vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh. Quá trình giải quyết vụ án bị đơn không hợp tác Toà án đã thụ lý giải quyết theo tranh chấp dân sự. Trong quá trình giải quyết đến giai đoạn xem xét thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp thì Toà án mới lấy lời khai của bị đơn và xác định chính xác mục đích của hợp đồng tín dụng hai bên ký kết đều có mục đích lợi nhuận, bị đơn vay vốn để phục vụ cho sản xuất kinh doanh tại nhà nên Toà án chuyển quan hệ tranh chấp vụ án là tranh chấp kinh doanh thương mại; bị đơn hiện cư trú tại xã Lập Lễ, huyện Thuỷ Nguyên nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H theo quy định tại khoản 1 Điều 30, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã được Tòa án đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Về yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả nợ gốc, nợ lãi: Căn cứ Hợp đồng tín dụng từng lần số: REF1820100035/HĐTD/HAIPHONG-HVG ngày 23/7/2018 và Giấy nhận nợ ngày 24/7/2018 đã ký kết giữa bên cho vay là Ngân hàng TMCP Đ(tên viết tắt S) và bên vay là ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L; căn cứ lời khai của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định: Ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L có ký kết hợp đồng tín dụng vay của S số tiền là 800.000.000 đồng và đã được S giải ngân đủ số tiền 800.000.000 đồng, việc ký kết hợp đồng tín dụng và giấy nhận nợ giữa hai bên là hoàn toàn tự nguyện, được ký kết bởi người có thẩm quyền, được công chứng theo đúng quy định của pháp luật nên hợp đồng tín dụng và giấy nhận nợ đều phát sinh hiệu lực. Quá trình thực hiện hợp đồng, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay nêu trên, kể từ ngày 05/5/2022 khoản vay đã chuyển sang nợ quá hạn cho đến nay. Tại phiên tòa, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả tổng số tiền còn nợ theo hợp đồng tín dụng và giấy nhận nợ tạm tính đến ngày 29/3/2024 là 198.399.594 đồng (trong đó, nợ gốc là: 137.640.314 đồng, nợ lãi trong hạn là:
18.540.182 đồng, nợ lãi quá hạn là: 42.219.098 đồng) và tiền lãi, phí phát sinh kể từ ngày 30/3/2024 cho đến khi bị đơn thực trả hết toàn bộ nợ cho S theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và giấy nhận nợ đã ký kết. Bị đơn thừa nhận tổng số dư nợ gốc, nợ lãi và ngày bắt đầu phát sinh nợ quá hạn như người đại diện của nguyên đơn trình bày, bị đơn không có ý kiến gì đối với phương thức tính lãi của nguyên đơn; bị đơn đề nghị được trả nợ dần. Vì vậy, có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn toàn bộ khoản nợ gốc, nợ lãi tính đến ngày 29/3/2024 là 198.399.594 đồng (trong đó, nợ gốc là: 137.640.314 đồng, nợ lãi trong hạn là: 18.540.182 đồng, nợ lãi quá hạn là:
42.219.098 đồng) theo Hợp đồng tín dụng từng lần số: REF1820100035/HĐTD/HAIPHONG-HVG ngày 23/7/2018 và Giấy nhận nợ ngày 24/7/2018. Bị đơn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh kể từ ngày 30/3/2024 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ cho nguyên đơn theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký kết.
[3]. Về yêu cầu của nguyên đơn đề nghị phát mại tài sản bảo đảm nếu bị đơn không trả được nợ:
Tài sản bảo đảm cho khoản vay của bị đơn là: Quyền sử dụng diện tích 120m2 đất ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 660A, tờ bản đồ số 04, tại thôn Đầu Cầu, xã Lập Lễ, huyện T, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 308457, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 01430 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 02/12/2014 cho người sử dụng là ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L. Tài sản này được thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số ngày 23/7/2018, số công chứng 2981 quyển số 01/2018.TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Hường, thành phố H. Các bên ký kết hợp đồng thế chấp trên tinh thần tự nguyện, được ký kết bởi người có thẩm quyền và được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản đều được ký kết bởi người có thẩm quyền, trên tinh thần tự nguyện, nội dung và hình thức đều đảm bảo đúng pháp luật phù hợp với quy định tại các điều 117, 119, 298, 299, 463, 466, 500 và 502 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 188 của Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Vì vậy, hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản đều phát sinh hiệu lực. Trường hợp bị đơn không trả được nợ, nguyên đơn được quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên và phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ là có căn cứ chấp nhận. Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bảo đảm sau khi trả nợ còn dư sẽ được trả lại cho bị đơn. Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bảo đảm không đủ trả nợ thì bị đơn phải tiếp thục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn cho đến khi trả xong toàn bộ khoản nợ là phù hợp với quy định của pháp luật.
Tài sản bảo đảm đã được xem xét, thẩm định tại chỗ. Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ cho thấy: Đất không có tranh chấp; đất có diện tích, các mốc giới và giáp ranh không có thay đổi gì so với khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và khi thế chấp cho S. Về hiện trạng sử dụng: Trên đất có 01 nhà ở cấp 4, 01 tầng mái bằng, diện tích xây dựng là 38m2; 01 bể nước và công trình phụ phía sau đều do vợ chồng ông G và bà L sử dụng, không liên quan đến người nào khác. Tất cả các tài sản trên đều thuộc tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp.
[4]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên theo quy định tại Điều 147 của BLTTDS và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
[5]. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 26, 35, 39, 91, 92, 96, 97, 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 117, 119, 298, 299, 463, 466, 500 và 502 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 188 của Luật đất đai năm 2013; Điều 91, Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Đ(tên viết tắt là S):
1.1. Ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L phải trả cho S số tiền còn nợ tính đến ngày 29/3/2024 là 198.399.594 đồng (trong đó, nợ gốc là: 137.640.314 đồng, nợ lãi trong hạn là: 18.540.182 đồng, nợ lãi quá hạn là: 42.219.098 đồng) theo Hợp đồng tín dụng từng lần số: REF1820100035/HĐTD/HAIPHONG-HVG ngày 23/7/2018 và Giấy nhận nợ ngày 24/7/2018.
1.2. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
1.3. Trường hợp ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L không trả được nợ cho S thì S được quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên và phát mại tài sản bảo đảm sau để thu hồi nợ: Quyền sử dụng diện tích 120m2 đất ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 660A, tờ bản đồ số 04, tại thôn Đầu Cầu, xã Lập Lễ, huyện T, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 308457, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 01430 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 01/12/2014 cho người sử dụng là ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L. Tài sản này được thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 23/7/2018, số công chứng 2981 quyển số 01/2018.TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Hường, thành phố H.
1.4. Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bảo đảm sau khi trả hết nợ cho S mà còn dư thì được trả lại phần dư cho ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L. Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bảo đảm mà không đủ trả hết khoản nợ thì ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L phải tiếp thục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho seABank cho đến khi trả xong toàn bộ khoản nợ.
2. Về án phí: Ông Hoàng Văn G và bà Nguyễn Thị L phải nộp số tiền 9.920.000 đồng (Đã làm tròn số) án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại S số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.760.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008742 ngày 17/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 04/2024/KDTM-ST
Số hiệu: | 04/2024/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về