Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 03/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 03/2022/DS-ST NGÀY 03/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 03 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 27/2021/TLST-DS ngày 29 tháng 12 năm 2021 về việc “ Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn Th – Chức vụ: Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.

Địa chỉ: Số 2, LH, phường TC, quận BĐ, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đinh Xuân L – Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện S Quảng Ngãi. Theo quyết định uỷ quyền số: 2965/QĐ-NHNo-PC ngày 27/12/2019.

Địa chỉ: Tổ dân phố HG, thị trấn DL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Đinh M, sinh năm 1958 và bà Đinh Thị S, sinh năm 1969.

Địa chỉ: Thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng mặt.

3. Người phiên dịch: Bà Đinh Thị H, Cán bộ hưu trí thị trấn DL, huyện S.

Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/12/2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền nguyên đơn ông Đinh Xuân L trình bày:

Vào ngày 20/3/2019 ông Đinh M và bà Đinh Thị S có vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S (sau đây viết tắt là Ngân hàng) tại sổ vay vốn số 4505-LAV-201900571 với số tiền 100.000.000đồng (một trăm triệu đồng), lãi suất 11%/năm, lãi quá hạn 16,5%/năm, thời hạn vay 36 tháng, kỳ hạn trả lãi 12 tháng/lần, hạn trả gốc cuối cùng vào ngày 20/3/2022, mục đích vay để mua keo, chăm sóc và khai thác.

Để làm tin cho khoản vay trên, ông M và bà S tự nguyện giao tài sản là một bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 922537, vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH00417 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 30/6/2014, thửa đất số 146, tờ bản đồ số 9, diện tích 642,8m2, loại đất ở tại nông thôn, địa chỉ thửa đất tại thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi cấp cho ông Đinh M và bà Đinh Thị S.

Quá trình thực hiện hợp đồng vay vốn, thời gian đầu ông Đinh M và bà Đinh Thị S có thực hiện nghĩa vụ trả lãi, nhưng từ ngày 27/6/2020 đến nay không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận mà vi phạm nghĩa vụ trả nợ lãi và nợ gốc. Nhiều lần, đại diện Ngân hàng đã đến gặp trực tiếp và làm việc để yêu cầu thanh toán khoản nợ lãi và gốc cho Ngân hàng nhưng ông M và bà S hứa hẹn mà không trả hoặc thường xuyên đi làm ăn xa không có mặt tại địa phương. Trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết, vào ngày 17/01/2022 bà S có đến Ngân hàng thanh toán được khoản tiền lãi tính từ ngày 27/6/2020 đến ngày 19/12/2021 là 15.879.178đồng. Từ đó đến nay ông M bà S không trả tiền lãi và tiền gốc cho Ngân hàng. Nay, Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông M và bà S có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền cả gốc và lãi tính đến ngày 03/8/2022 là 108.854.246đồng (Một trăm lẻ tám triệu, tám trăm năm mươi bốn nghìn, hai trăm bốn mươi sáu đồng), trong đó: tiền gốc là 100.000.000đồng; tiền lãi trong hạn là 6.804.931đồng và tiền lãi quá hạn là 2.049.315đồng. Đồng thời, buộc ông M và bà S phải tiếp tục thanh toán số tiền nợ lãi tính theo lãi suất quy định tại sổ vay vốn số 4505-LAV-201900571, kể từ ngày 04/8/2022 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ các khoản nợ cho Ngân hàng.

Sau khi thanh toán xong các khoản nợ, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, sẽ hoàn trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Ngân hàng đang tạm giữ cho ông M và bà S.

- Tại bản tự khai ngày 17/01/2022 bị đơn ông Đinh M và bà Đinh Thị S trình bày: Vào tháng 03/2019 vợ chồng ông, bà có vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện S với số tiền 100.000.000đồng (Một trăm triệu đồng); mục đích vay để mua keo, chăm sóc và khai thác; lãi suất 11%/năm; thời hạn vay 36 tháng; kỳ hạn trả lãi 12 tháng/lần; hạn trả gốc cuối cùng vào ngày 20/3/2022. Để làm tin cho Ngân hàng, vợ chồng ông, bà có giao cho Ngân hàng tạm giữ một bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 922537, vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH00417, được Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 30/6/2014, thửa đất số 146, tờ bản đồ số 9, diện tích 642,8m2, địa chỉ thửa đất tại thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi đứng tên vợ chồng ông, bà. Quá trình vay vốn, thời gian đầu ông, bà trả lãi đầy đủ, nhưng thời gian sau việc làm ăn kinh tế gặp khó khăn nên ông, bà không trả lãi cho Ngân hàng đúng hạn, khi nhận được thông báo thụ lý của Tòa án, ông, bà đã đến Ngân hàng trả được một khoản tiền lãi, còn nợ tiền gốc vẫn chưa trả cho Ngân hàng. Ngày 14/02/2022 ông M, bà S đã cung cấp 01 đơn đề nghị miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Tuy nhiên, sau khi Tòa án tiếp tục tống đạt các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án thì ông M, bà S vắng mặt tại địa phương nơi cư trú, không rõ thời điểm trở về, không có người thân ký nhận văn bản tố tụng.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhan dân huyện S tham gia phiên tòa:

- Quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo Điều 70 và 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia tố tụng, nên đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt ông M, bà S theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung yêu cầu của nguyên đơn: Sau khi xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 157; Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 351, Điều 463; Điều 466; Điều 468 và Điều 470 của Bộ luật dân sự; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng buộc vợ chồng ông Đinh M và bà Đinh Thị S có nghĩa vụ thanh toán tổng số tiền tính đến ngày 03/8/2022 là 108.854.246đồng (Một trăm lẻ tám triệu, tám trăm năm mươi bốn nghìn, hai trăm bốn mươi sáu đồng), trong đó: tiền gốc là 100.000.000đồng; tiền lãi trong hạn là 6.804.931đồng và tiền lãi quá hạn là 2.049.315đồng; đồng thời ông M, bà S phải tiếp tục thanh toán tiền lãi phát sinh từ ngày 04/8/2022 cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ cho Ngân hàng.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Đinh M và bà Đinh Thị S có hộ khẩu thường trú tại Thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi hiện là vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Căn cứ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử xét miễn án phí cho bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi khởi kiện buộc ông Đinh M và bà Đinh Thị S phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền vay theo hợp đồng vay vốn đã ký xác lập ngày 20/3/2019 tại sổ vay vốn 4505- LAV-201900571. Qua xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy Ngân hàng là tổ chức tín dụng (bên cho vay), ông M, bà S là cá nhân có nhu cầu vay vốn (bên vay) để sử dụng vào mục đích mua keo, chăm sóc và khai thác nhằm phát triển kinh tế gia đình, do đó, xác định đây là quan hệ tranh chấp dân sự về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quy định tại khoản 3 Điều 26, của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện, Quảng Ngãi khởi kiện đối với bị đơn ông Đinh M và bà Đinh Thị S có hộ khẩu thường trú tại huyện S, tỉnh Quảng Ngãi nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Quảng Ngãi theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về thủ tục tố tụng:

Sau khi thụ lý vụ án, thời gian đầu ông M, bà S chấp hành theo đúng giấy triệu tập của Tòa án và đã có bản tự khai, đơn đề nghị miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, sau đó Tòa án tiếp tục tống đạt các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án thì ông Manh, bà S vắng mặt tại địa phương nơi cư trú, không rõ thời điểm trở về, không có người thân ký nhận văn bản tố tụng, qua xác minh tại công an xã SL xác định ông M, bà S vẫn đang đăng ký thường trú tại thôn LG, xã SL, huyện S. Do đó, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ, đầy đủ được quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng ông M, bà S vẫn không tham gia tố tụng theo lịch đã ấn định, đồng thời không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ chứng minh hoặc có yêu cầu phản tố đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa, ông M, bà S vắng mặt lần thứ hai không có lý do, do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông M, bà S, là phù hợp với điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4]. Xét nội dung vụ án:

- Sau khi xem xét tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy, vào ngày 20/3/2019 ông Đinh M và bà Đinh Thị S có vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S tại sổ vay vốn số 4505-LAV-201900571 với số tiền 100.000.000đồng (một trăm triệu đồng), lãi suất 11%/năm, lãi quá hạn 16,5%/năm, thời hạn vay 36 tháng, kỳ hạn trả lãi 12 tháng/lần, hạn trả gốc cuối cùng vào ngày 20/3/2022, mục đích vay để mua keo, chăm sóc và khai thác.

Để làm tin khoản vay trên, ông M và bà S tự nguyện giao nộp tài sản là một bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 922537, vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH00417 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 30/6/2014, thửa đất số 146, tờ bản đồ số 9, diện tích 642,8m2, loại đất ở tại nông thôn, địa chỉ thửa đất tại thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi cấp cho ông Đinh M và bà Đinh Thị S. Như vậy, việc giao kết hợp đồng tín dụng giữa các bên là có thật, nội dung thỏa thuận trong hợp đồng là phù hợp theo quy định của pháp luật.

Quá trình thực hiện hợp đồng vay vốn, thời gian đầu ông M và bà S thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết về việc trả lãi, nhưng sau đó đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ lãi và nợ gốc cho Ngân hàng. Nhằm đôn đốc, thu hồi nợ, đại diện Ngân hàng đã nhiều lần đến gặp trực tiếp và làm việc yêu cầu ông M và bà S thanh toán khoản nợ lãi và gốc cho Ngân hàng nhưng ông M, bà S hứa hẹn mà không trả hoặc thường xuyên đi làm ăn xa không có mặt tại địa phương. Sau khi nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án của Tòa án, vào ngày 17/01/2022 bà S có đến Ngân hàng thanh toán được khoản tiền lãi tính từ ngày 27/6/2020 đến ngày 19/12/2021 là 15.879.178đồng. Từ đó đến nay ông M, bà S không trả tiền lãi và tiền gốc cho Ngân hàng. Do đó, việc Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông M, bà S phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền cả gốc và lãi là có căn cứ, nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán số nợ gốc và tiền lãi tính đến ngày 03/8/2022 là 108.854.246đồng (Một trăm lẻ tám triệu, tám trăm năm mươi bốn nghìn, hai trăm bốn mươi sáu đồng), trong đó: Tiền gốc là 100.000.000đồng; tiền lãi trong hạn là 6.804.931đồng và tiền lãi quá hạn là 2.049.315đồng).

- Đối với yêu cầu của nguyên đơn về lãi suất: Hội đồng xét xử xét thấy nội dung thỏa thuận về lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn giữa Ngân hàng và ông M, bà S theo sổ vay vốn (hợp đồng tín dụng) là phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay quy định tại Điều 91, Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 351, Điều 468 Bộ luật dân sự 2015. Do đó, nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 03/8/2022, cụ thể: tiền lãi trong hạn là 6.804.931đồng và tiền lãi quá hạn là 2.049.315đồng. Ông M, bà S còn phải tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận tại sổ vay vốn số 4505-LAV-201900571, kể từ ngày 04/8/2022 đến khi tất toán xong toàn bộ khoản nợ cho Ngân hàng.

- Đối với tài sản mà các bên giao nhận để làm tin: Sau khi ông M, bà S tất toán xong toàn bộ khoản vay, Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả lại tài sản là một bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 922537, vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH00417 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 30/6/2014, thửa đất số 146, tờ bản đồ số 9, diện tích 642,8m2, loại đất ở tại nông thôn, địa chỉ thửa đất tại thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi cấp cho ông Đinh M và bà Đinh Thị S.

[5]. Về án phí: Ông Đinh M và bà Đinh Thị S có hộ khẩu thường trú tại Thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi hiện là vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và có đơn đề nghị miễn án phí dân sự sơ thẩm, do đó bị đơn được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp.

[6]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 157, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 351, Điều 463; Điều 466; Điều 468 và Điều 470 của Bộ luật dân sự; Điều 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S đối với bị đơn ông Đinh M và bà Đinh Thị S.

- Buộc vợ chồng ông Đinh M và bà Đinh Văn S phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện S tổng số tiền tính đến ngày 03/8/2022 là 108.854.246đồng (Một trăm lẻ tám triệu, tám trăm năm mươi bốn nghìn, hai trăm bốn mươi sáu đồng), trong đó: tiền gốc là 100.000.000đồng; tiền lãi trong hạn là 6.804.931đồng và tiền lãi quá hạn là 2.049.315đồng. Ông Đinh M, bà Đinh Thị S tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng số 4505-LAV- 201900571 ký kết ngày 20/3/2019, kể từ ngày 04/8/2022 đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản vay cho Ngân hàng.

Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả lại tài sản là một bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 922537, vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH00417 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 30/6/2014, thửa đất số 146, tờ bản đồ số 9, diện tích 642,8m2, loại đất ở tại nông thôn, tọa lạc tại thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi đứng tên ông Đinh M, bà Đinh Thị S ngay sau khi ông M, bà S thanh toán xong toàn bộ khoản nợ vay cho Ngân hàng.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn ông Đinh M, bà Đinh Thị S được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Sơn Hà số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp là 2.892.000 (Hai triệu, tám trăm chín mươi hai nghìn đồng) theo biên lai thu tiền án phí, lệ phí Tòa án số 0000741 ngày 28/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng (sổ vay vốn) số 4505- LAV-201900571 ngày 20/3/2019.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 03/2022/DS-ST

Số hiệu:03/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Sơn - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 03/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về