TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 02/2024/DS-ST NGÀY 05/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 05 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 220/2023/TLST–DS ngày 24 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 476/2023/QĐST-DS ngày 15 tháng 12 năm 2023, giữa:
- Nguyên đơn: Ngân hàng A (A). Trụ sở: Phường L, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: ông Ngô Chí D, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị. Người đại diện theo ủy quyền: bà Trịnh Thị Thanh H, chức vụ: Giám đốc trung tâm thu hồi nợ (theo Văn bản uỷ quyền số 62/2023/UQ-CTHĐQT ngày 02/8/2023 của Chủ tịch Hội đồng quản trị); Bà H ủy quyền lại cho ông Lý Viết T, ông Ngô Hoàng A, bà Phạm Tuyết M (theo Văn bản uỷ quyền số 1435/2023/UQ-RCC-TCNMKHCN ngày 10/10/2023 của A). Ông T có mặt tại phiên toà.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân T; Sinh năm: 1982; HKTT: phường P, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Ông T có đơn xin vắng mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn - Ngân hàng A do người đại diện theo ủy quyền là ông Lý Viết T trình bày:
Ngày 18/5/2022, ông Nguyễn Xuân T và Ngân hàng A có ký Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324-P-8566880: Hạn mức cho vay: 140.000.000 đồng. Thời hạn vay: 60 tháng, ngày giải ngân vay vốn 20/5/2022. Mục đích vay: Phục vụ nhu cầu đời sống.
Từ ngày kích hoạt thẻ đến nay Ông T đã thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền 3.005.989 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông Nguyễn Xuân T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ đối với A, theo đó các khoản vay đã chuyển sang nợ quá hạn. Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở, gia hạn tạo điều kiện nhưng Ông T vẫn không có thiện chí trả nợ. Do Ông T vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 5 của Xác nhận và cam kết của khách hàng), Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của Ông T và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 5 của Xác nhận và cam kết của khách hàng). Lãi suất quá hạn được tính trên số tiền nợ gốc thẻ 150% lãi suất trong hạn. Tạm tính đến ngày 05/01/2024, Ông T còn nợ A số tiền là 225.210.844 đồng, trong đó nợ gốc: 136.994.011 đồng; Nợ lãi trong hạn: 86.133.845 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.082.988 đồng.
Mặc dù Ngân hàng đã thường xuyên đôn đốc, nhiều lần làm việc trực tiếp với ông T, yêu cầu Ông T có trách nhiệm thanh toán ngay khoản nợ quá hạn, đồng thời Ngân hàng cũng tạo điều kiện về mặt thời gian để Ông T trả nợ, tuy nhiên Ông T vẫn chưa thanh toán khoản nợ vay quá hạn cho Ngân hàng, vi phạm các điều khoản qui định tại Hợp đồng đã ký.
Vì vậy, Ngân hàng A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết với các nội dung sau:
1. Buộc ông Nguyễn Xuân T trả cho Ngân hàng A số tiền tạm tính đến ngày 05/01/2024: Nợ gốc: 136.994.011 đồng; Nợ lãi trong hạn: 86.133.845 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.082.988 đồng. Tổng cộng: 225.210.844 đồng theo Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324-P-8566880 ngày 18/5/2022 và Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng A.
2. Ông Nguyễn Xuân T có trách nhiệm thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 06/01/2024 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ vay theo lãi suất tại hợp đồng.
Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về việc triệu tập lấy lời khai và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ; Bị đơn vắng mặt không có lý do tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bị đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên toà, Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
* Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên Tòa phát biểu quan điểm:
- Việc tuân theo pháp luật của thẩm phán: Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán quy định tại Điều 48 BLTTDS, cụ thể:
- Về thẩm quyền: Theo qui định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ: Ông Nguyễn Xuân T có hộ khẩu thường trú và nơi cư trú tại: phường P, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Như vậy, việc Tòa án nhân dân quận Ba Đình thụ lý giải quyết vụ án đúng quy định về thẩm quyền.
Về quan hệ pháp luật tranh chấp và tư cách các đương sự: Thẩm phán đã xác định đúng quan hệ pháp luật theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và tư cách người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án tại phiên tòa: Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định tại chương 14 của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi về phiên tòa sơ thẩm:
+ Chấp hành đúng theo các nguyên tắc cơ bản về xét xử và thành phần Hội đồng xét xử đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 51 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án:
- Đối với đương sự: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay các đương sự đã được thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự.
Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự trong việc nộp đơn khởi kiện, cung cấp tài liệu chứng cứ, nộp tạm ứng án phí và trình bày yêu cầu của mình. Chấp hành đúng nội quy phiên tòa theo Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn đã được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của A; Buộc ông Nguyễn Xuân T phải thanh toán trả cho Ngân hàng số tiền còn nợ tạm tính đến ngày 05/01/2024: Nợ gốc: 136.994.011 đồng; Nợ lãi trong hạn: 86.133.845 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.082.988 đồng. Tổng cộng: 225.210.844 đồng theo Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324-P-8566880 ngày 18/5/2022 và Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng A.
Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Xuân T phải chịu án phí dân sự có giá ngạch theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Về tố tụng:
Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Nguyễn Xuân T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành tố tụng giải quyết và xét xử vụ án vắng mặt ông Nguyễn Xuân T.
Đây là vụ án yêu cầu thanh toán tiền còn nợ theo Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324-P-8566880 ngày 18/5/2022 giữa Ngân hàng A và ông Nguyễn Xuân T, mục đích mở thẻ tín dụng tiêu dùng cá nhân. Do vậy, xác định đây là tranh chấp dân sự được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Ông Nguyễn Xuân T đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú tại: Số 14, ngách 71/132 Tân Ấp, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, do ông Nguyễn Xuân T không thanh toán được khoản nợ cho A khi đến hạn trả nợ. Do vậy, A đã khởi kiện Ông T đến Tòa án nhân dân quận Ba Đình, đề nghị Tòa án giải quyết buộc Ông T phải thanh toán trả A toàn bộ khoản nợ gốc, nợ lãi, tiền phạt chậm trả lãi và các khoản phát sinh liên quan. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân quận Ba Đình thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền và còn thời hiệu.
Ngày 18/5/2022, ông Nguyễn Xuân T và Ngân hàng A có ký Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324-P-8566880 (các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng). Quá trình thực hiện hợp đồng, Ông T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ đối với A. Do đó, ngân hàng đã chuyển toàn bộ số nợ vay còn thiếu của hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng sang nợ quá hạn. Căn cứ Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án này không thuộc trường hợp phải áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Quá trình giải quyết vụ án, trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, bị đơn không đưa ra yêu cầu phản tố, nên Tòa án không xem xét.
[2]. Về nội dung:
Ngày 18/5/2022, ông Nguyễn Xuân T và Ngân hàng A có ký Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324-P-8566880 (các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng). Căn cứ thu nhập của ông T, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là: 140.000.000 đồng; Mục đích vay: Phục vụ nhu cầu đời sống; Biện pháp đảm bảo cho khoản vay: Tín chấp.
Hội đồng xét xử nhận thấy, Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324-P-8566880 ngày 18/5/2022 được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện và phù hợp với các quy định của Luật các tổ chức tín dụng và Bộ luật Dân sự. Do đó xác định đây là hợp đồng hợp pháp có hiệu lực thi hành đối với các bên.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Ông T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ đối với Ngân hàng A. Do đó, Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số nợ vay còn thiếu của hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng sang nợ quá hạn.
Nay Ngân hàng khởi kiện buộc Ông T phải thanh toán cho ngân hàng số tiền còn nợ tính đến ngày 05/01/2024: Nợ gốc: 136.994.011 đồng; Nợ lãi trong hạn:
86.133.845 đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.082.988 đồng. Tổng cộng: 225.210.844 đồng. Đối với yêu cầu tính lãi suất quá hạn của Ngân hàng A, Hội đồng xét xử xét thấy: Qua đối chiếu nhận thấy cách tính lãi, phí chậm thanh toán của các bên theo Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324 -P-8566880 ngày 18/5/2022 của Ngân hàng A phù hợp quy định của pháp luật và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng nên được chấp nhận.
[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ngân hàng A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; Bị đơn ông Nguyễn Xuân T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.
- Nguyên đơn; bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật;
- Vì các căn cứ nhận định trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273; Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào Điều 91; Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng (Đã được sửa đổi bổ sung năm 2017).
Căn cứ Điều 345; Điều 463; Điều 466; Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A, buộc ông Nguyễn Xuân T thanh toán trả cho Ngân hàng A toàn bộ nợ gốc, lãi trong hạn và lãi quá hạn theo Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324-P-8566880 ngày 18/5/2022 của Ngân hàng A.
- Xác nhận ông Nguyễn Xuân T còn nợ Ngân hàng A số tiền nợ gốc và lãi theo Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324-P-8566880 ngày 18/5/2022 của Ngân hàng A với tổng số tiền tạm tính đến ngày 05/01/2024, cụ thể như sau: Nợ gốc: 136.994.011 (Một trăm ba mươi sáu triệu, chín trăm chín mươi tư nghìn, không trăm mười một) đồng; Nợ lãi trong hạn: 86.133.845 (Tám mươi sáu triệu, một trăm ba mươi ba nghìn, tám trăm bốn mươi lăm) đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.082.988 (Hai triệu, không trăm tám mươi hai nghìn, chín trăm tám mươi tám) đồng. Tổng cộng: 225.210.844 (Hai trăm hai mươi lăm triệu, hai trăm mười nghìn, tám trăm bốn mươi bốn) đồng.
2. Buộc ông Nguyễn Xuân T thanh toán trả cho Ngân hàng A với tổng số tiền tạm tính đến ngày 05/01/2024, cụ thể như sau: Nợ gốc: Nợ gốc: 136.994.011 (Một trăm ba mươi sáu triệu, chín trăm chín mươi tư nghìn, không trăm mười một) đồng; Nợ lãi trong hạn: 86.133.845 (Tám mươi sáu triệu, một trăm ba mươi ba nghìn, tám trăm bốn mươi lăm) đồng; Nợ lãi quá hạn: 2.082.988 (Hai triệu, không trăm tám mươi hai nghìn, chín trăm tám mươi tám) đồng. Tổng cộng: 225.210.844 (Hai trăm hai mươi lăm triệu, hai trăm mười nghìn, tám trăm bốn mươi bốn) đồng theo Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324-P-8566880 ngày 18/5/2022 của Ngân hàng A.
3. Do bị đơn không đưa ra yêu cầu phản tố nên Tòa án không xem xét. Nếu sau này giữa các bên có tranh chấp thì có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Xuân T phải chịu 11.260.542 (Mười một triệu, hai trăm sáu mươi nghìn, năm trăm bốn mươi hai) đồng án phí dân sự sơ thẩm (chưa nộp).
- Ngân hàng A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp 5.155.228 (Năm triệu, một trăm năm mươi lăm nghìn, hai trăm hai mươi tám) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004601 ngày 24/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn Xuân T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi đối với khoản tiền nợ gốc cho đến khi thanh toán hết nợ theo mức lãi suất mà hai bên thỏa thuận tại Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp hạn mức tín dụng thẻ, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng điện tử số 324-P-8566880 ngày 18/5/2022 và Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng A.
Trường hợp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án. Bị đơn - ông Nguyễn Xuân T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 02/2024/DS-ST
Số hiệu: | 02/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về