Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 01/2024/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỢI, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 01/2024/KDTM-ST NGÀY 01/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 01 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 04/2023/TLST-KDTM ngày 16 tháng 10 năm 2023 về “tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-KDTM ngày 15 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Q chỉ trụ sở chính: Số 25 Lê Đại Hành, phường Lê Đại Hành, Quận H, Thành phố H.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Bùi Thị Thanh H, chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Viết P, chức vụ Phó Giám đốc trung tâm xử lý nợ Ngân hàng TMCP Q theo giấy ủy quyền số 109/2023/UQ-CTHĐQT ngày 13/7/2023 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Q.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Viết P: Ông Mạc Phong V, sinh năm 1977 (có mặt)

Địa chỉ liên hệ: Số 257 đường 30/4 phường Xuân Khánh, quận N, thành phố C

- Bị đơn: Ông Lương Đại P, sinh năm 1996 (Vắng mặt) Chủ hộ kinh doanh Lương Đại P.

Địa chỉ: Ấp Bắc Hưng, xã V, huyện V, tỉnh B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Lương Văn L, sinh năm 1967 (Vắng mặt)

+ Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1967 (Vắng mặt)

+ Ông Lương Đại P, sinh năm 1991 (Vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Ấp Bắc Hưng, xã V, huyện V, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/8/2023, và các lời khai tiếp theo tại Tòa án, người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn, Ngân hàng Q ông Mạc Phong V trình bày:

Vào ngày 11 tháng 6 năm 2019, Ngân hàng Q (sau đây viết tắt là Ngân hàng TMCP Q) có ký kết hợp đồng tín dụng với ông Lương Đại P, theo hợp đồng tín dụng số 033/19/HĐHM ngày 11/6/2019, số tiền vay 450.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, lãi suất trong hạn 10,5%/năm, cố định trong 03 tháng đầu tiên, sau đó điều chỉnh lại lãi suất cơ sở cộng 3%/năm; lãi suất quá hạn 150% lãi suất trong hạn, lãi phạt 10%/năm. Mục đích cho vay: Bổ sung vốn kinh doanh mua bán lúa.

Để đảm bảo cho khoản vay trên, khách hàng đã thế chấp tài sản bảo đảm là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số AG111934, số vào sổ cấp GCN: H15.234 do UBND huyện V, tỉnh B cấp ngày 29/09/2006, cụ thể như sau: Thửa đất số: 323; tờ bản đồ số: 05; đất tọa lạc tại ấp Bắc Hưng, xã V, huyện V, tỉnh B. Diện tích: 5.253 m². Mục đích sử dụng: Đất ở tại nông thôn 500m2; thời hạn sử dụng: Lâu dài; đất trồng cây lâu năm: 4.753m2; thời hạn sử dụng: Đến tháng 10/2043; Nguồn gốc sử dung: Công nhận quyền sử dụng đất như giao đất có thu tiền sử dụng đất.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay trên theo Hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng đất số 033/2019/HĐTC/117-9384 ngày 11/06/2019 và Đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn Phòng Đăng ký đất đai huyện V, tỉnh B ngày 12/06/2019 theo quy định.

Quá trình thực hiện hợp đồng: Sau khi vay, ông P không thanh toán gốc, ông P chỉ thanh toán lãi cho Ngân hàng được số tiền 49.921.228 đồng, đến ngày 25/11/2020 ông P ngưng thanh toán lãi và Ngân hàng TMCP Q có điện thoại nhắc nhỡ, nhưng ông P vẫn không trả nợ. Đến ngày 25/11/2020, toàn bộ số nợ ông P còn thiếu, Ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn.

Tính đến ngày 01 tháng 3 năm 2024, ông Lương Đại P còn nợ Ngân hàng TMCP Q số tiền 754.542.481 đồng, trong đó tiền vốn gốc 449.999.995 đồng và tiền lãi đến ngày 01 tháng 3 năm 2024 là 304.542.486 đồng.

Từ đó, Ngân hàng TMCP Q yêu cầu ông Lương Đại P thanh toán Ngân hàng TMCP Q số tiền 754.542.481 đồng và lãi phát sinh theo hợp đồng từ ngày 02/03/2024 đến khi ông P trả hết nợ theo lãi suất thỏa thuận đã ký kết với Ngân hàng; trường hợp ông P không trả nợ hoặc trả không đầy đủ nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản đã ký kết thế chấp tại Ngân hàng theo quy định pháp luật.

Bị đơn ông Lương Đại P trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày 01/12/2023: Tôi có ký tên vay tiền 450.000.000 đồng tại Ngân hàng TMCP Q theo hợp đồng tín dụng mà Ngân hàng cung cấp, tôi có đăng ký kinh doanh lúa gạo. Quá trình vay, cha tôi là ông L, bà A có ký thế chấp quyền sử dụng đất. Tôi có ký tên đầy đủ vào hồ sơ vay, kể cả khế ước nhận tiền vay. Thực tế tôi vay tiền nhưng tôi và cha mẹ tôi không có lấy tiền. Sau khi vay tiền, chúng tôi cho ông Nguyễn Văn Q là cháu của cha tôi mượn làm ăn, kinh doanh. Tuy nhiên, giữa tôi, ông Q và cha mẹ tôi không có bất kỳ văn bản thỏa thuận nào có việc tôi đưa tiền cho ông Q, cũng như không chứng minh được việc vay tiền dùm cho ông Q. Từ đó, tôi đồng ý trả nợ theo yêu cầu của Ngân hàng TMCP Q. Trường hợp tôi không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ, tôi đồng ý xử lý tài sản thế chấp mà chúng tôi đã ký kết với Ngân hàng.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lương Văn L trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày 01/12/2023: Ông Lương Đại P là con trai của tôi. Tôi có biết Ngân hàng TMCP Q kiện ông Lương Đại P đại diện hộ kinh doanh Lương Đại P về việc ký kết hợp đồng tín dụng với Ngân hàng TMCP Q. Trong quá trình ký kết, vợ chồng tôi có ký kết bảo đảm tài sản cho khoản vay theo hợp đồng thế chấp 033/2019/HĐTC/117-9384 ngày 11/6/2019. Tài sản thế chấp là: Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số:

323; tờ bản đồ số: 5; diện tích theo giấy: 5.253m2; địa chỉ thửa đất: Ấp Bắc Hưng, xã V, huyện V, tỉnh B theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 111934; số vào sổ cấp GCN: H.15.234 do UBND huyện V cấp ngày 29/9/2006 cấp cho tôi ông Lương Văn L. Mục đích ông P vay tiền dùm cho Nguyễn Văn Q là cháu của tôi, để Q làm ăn. Do tôi kêu ông P đứng vay tiền dùm cho ông Nguyễn Văn Q vì thấy ông Q làm ăn được, số tiền vay 450.000.000 đồng mà ông P ký nhận tại Ngân hàng TMCP Q là gia đình tôi không sử dụng, chúng tôi đưa hết cho ông Q. Tuy nhiên, vì ông Q là cháu của tôi nên tôi không làm giấy tờ. Nay Ngân hàng TMCP Q yêu cầu ông Lương Đại P trả tiền vay theo hợp đồng tín dụng đã ký kết; Trường hợp ông Lương Đại P không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ thì tôi đồng ý phát mãi tài sản thế chấp đã ký kết theo quy định pháp luật.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị A trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày 06/12/2023: Bà Nguyễn Thị A là vợ ông Lương Văn L. Bà A thống nhất lời trình bày của ông L. Bà A đồng ý phát mãi tài sản thế chấp trong trường hợp ông P không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lương Đại P trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày 01/12/2023: Ông P là con của ông L là anh ruột ông P. Ông P không hiểu biết gì đối với khoản vay mà ông P ký kết cũng như thế chấp tài sản để đảm bảo cho khoản vay. Hiện ông P ở nhờ nhà cha mẹ để cho con đi học. Ông P không trình bày gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh B trình bày việc tuân theo pháp luật của Tòa án: Từ khi thụ lý cho đến phiên tòa xét xử sơ thẩm, Tòa án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; bị đơn ông P, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lương Văn L, Lương Đại P, bà Nguyễn Thị A chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định tại các Điều 70, 72, 73 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Q đối với ông Lương Đại P; buộc ông Lương Đại P có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng TMCP Q số tiền là 754.542.481 đồng, trong đó tiền vốn gốc 449.999.995 đồng và tiền lãi là 304.542.486 đồng và lãi phát sinh theo hợp đồng từ ngày 02/03/2024 đến khi ông P trả hết nợ cho Ngân hàng; trường hợp ông P không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ thì Ngân hàng được quyền yêu cầu bán phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Ông P phải chịu án phí và chi phí tố tụng theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Ngày 28 tháng 9 năm 2023, Ngân hàng TMCP Q nộp đơn khởi kiện đến Tòa án tranh chấp hợp đồng tín dụng với bị đơn ông Lương Đại P. Mục đích vay Bổ sung vốn kinh doanh mua bán lúa. Khi khởi kiện ông Lương Đại P có đăng ký kinh doanh Hộ kinh doanh Lương Đại P, trú tại ấp Bắc Hưng, xã V, huyện V, tỉnh B. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện V thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đồng thời, bị đơn ông Lương Đại P, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lương Văn L, bà Nguyễn Thị A, ông Lương Đại P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Lương Đại P, ông Lương Văn L, bà Nguyễn Thị A, ông Lương Đại P theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Q đối ông Lương Đại P về tranh chấp hợp đồng tín dụng:

[2.1] Căn cứ Hợp hợp đồng tín dụng số 033/19/HĐHM ngày 11/6/2019, số tiền vay 450.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, lãi suất trong hạn 10,5%/năm, cố định trong 03 tháng đầu tiên, lãi suất quá hạn 150% lãi suất trong hạn, lãi phạt 10%/năm. Mục đích cho vay: Bổ sung vốn kinh doanh mua bán lúa. Phía ông P thừa nhận có ký tên vào hợp đồng tín dụng. Từ đó, có đủ cơ sở xác định giữa Ngân hàng TMCP Q với ông Lương Đại P có giao dịch tín dụng với nhau.

[2.2] Quá trình thực hiện hợp đồng: Sau khi vay, ông P không thanh toán gốc, ông P chỉ thanh toán lãi được số tiền 49.921.228 đồng, đến ngày 25/11/2020 ông P ngưng thanh toán lãi và Ngân hàng TMCP Q có điện thoại nhắc nhỡ, nhưng ông P vẫn không trả nợ. Ngân hàng chuyển sang toàn bộ số nợ mà ông P thiếu sang nợ quá hạn từ ngày 25/11/2020. Căn cứ vào bảng kê tính lãi mà Ngân hàng cung cấp, tính đến ngày 01/3/2024, ông P còn nợ Ngân hàng TMCP Q số tiền số tiền 754.542.481 đồng, trong đó tiền vốn gốc 449.999.995 đồng và tiền lãi là 304.542.486 đồng. Điều này được ông P thừa nhận trong quá trình làm việc tại Tòa án và ông P đồng ý trả nợ theo yêu cầu của Ngân hàng. Do đó, cần buộc ông P có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng TMCP Q số tiền 754.542.481 đồng, trong đó tiền vốn gốc 449.999.995 đồng và tiền lãi đến ngày 01 tháng 3 năm 2024 là 304.542.486 đồng. Đồng thời ông P còn phải chịu lãi suất phát sinh theo hợp đồng tín dụng kể từ ngày 02/3/2024 đến khi ông P thanh toán hết nợ cho Ngân hàng.

[2.3] Quá trình làm việc tại Tòa án, ông P xác định ông P vay tiền là do cha ông là ông Lương Văn L kêu ông P vay dùm cho ông Nguyễn Văn Q là cháu của ông L. Ông P không có sử dụng số tiền vay; sau khi vay tiền, ông P và ông L đưa lại cho ông Q. Tuy nhiên, việc ông P và ông L đưa tiền cho ông Q không có làm giấy tờ và cũng không ai chứng kiến. Điều này ông L cũng thừa nhận tại biên bản làm việc tại Tòa án ngày 01/12/2023. Ngoài ra, cả ông P và ông L đều xác định không có chứng cứ chứng minh đưa cho ông Q số tiền trên, do đó ông P, ông L sẽ tự thỏa thuận với ông Q. Phía Ngân hàng xác định, khoản vay này Ngân hàng giải ngân cho ông P, ông P nhận tiền vay, do đó Ngân hàng chỉ yêu cầu đối với ông P, không yêu cầu gì đối với ông Q.

Hội đồng xét xử xét thấy, ông P, ông L không có chứng cứ gì chứng minh đưa cho ông Q số tiền vay tại Ngân hàng. Ngân hàng không giao dịch và yêu cầu gì đối với ông Q. Hơn nữa, quá trình làm việc tại Tòa án, ông P, ông L cũng không đặt ra yêu cầu gì đối với ông Q. Cần thiết ông P, ông L sẽ khởi kiện ông Q ở vụ án khác.

[3] Xét hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng đất số 033/2019/HĐTC/1179384 ngày 11/6/2019 được được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Q với ông Lương Văn L, bà Nguyễn Thị A, phần đất thửa 323, tờ bản đồ số 5, diện tích theo giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất là 5253m2 ( diện tích theo đo đạc thực tế là 4.308,9m2) tọa lạc ấp Bắc Hưng, xã V, huyện V, tỉnh B, được Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/9/2006 cho ông Lương Văn L.

[3.1]. Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản và mãnh trích đo địa chính, phần đất thế chấp có vị trí:

Hướng Đông giáp một phần đất ông Huỳnh Văn Kiên đang sử dụng có số đo 64,91m, giáp một phần bà Thảo (không rõ họ) đang sử dụng có số đo 54,42m.

Hướng Tây giáp một phần đất ông Lương Văn L đang sử dụng có số đo 38,51m;

23,33m; 5,39m; 5,78m; 49,32m và giáp một phần Lương Văn Quang đang sử dụng có số đo 8,80m.

Hướng Nam giáp đường bê tông có số đo 34,72m; 1m.

Hướng Bắc giáp đất ông Lương Văn L đang sử dụng có số đo 33,90m.

Hiện trạng trên đất thế chấp có 01 căn nhà chính kết cầu móng khung sườn bê tông cốt thép, vách tường xây, nền gạch men, mái tol thiếc. Một căn nhà phụ sau nhà chính có kết cấu cột bê tông, vách tường xây + thiếc, nền xi măng, mái tol xi măng. Một nhà tạm sau nhà phụ có kết cấu cây gỗ địa phương, nền xi măng, vách thiếc, mái tol xi măng + thiếc; 01 nhà vệ sinh, vách tường xây có hầm tự hoại; một mái che chuồng heo có kết câu cột bê tông, gạch xây chuồng heo cao 0,8m, nền xi măng, mái tol xi măng; một bàn thờ Ông Thiên xây gạch; nền xi măng trước và xung quanh nhà; một nhà mồ có 02 ngôi mộ;

Về cây trồng: 26 cây dừa, 05 cây mai, 01 cây me, 06 cây xoài, 04 cây mít, 02 cây mận, 14 cây tha la. Tất cả các tài sản và cây trồng nêu trên là của ông L và hiện do ông L quản lý, sử dụng cùng với P, P và bà A.

[3.2]. Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất được chứng thực và có đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định pháp luật, nhưng về nội dung tại thời điểm thế chấp diện tích đất mà ông L, bà A thế chấp đảm bảo khoản vay cho ông P có diện tích theo giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất là 5.253m2. Tuy nhiên, qua thẩm định thực tế diện tích chỉ có 4.308,9m2 (trong đó có 107,6m2 là diện tích mồ mã). Qua làm việc với ông L xác định, phần đất của ông với các hộ giáp ranh có ranh rõ ràng, từ xưa đến nay ông L sử dụng ổn định, không ai tranh chấp. Căn cứ vào công văn trả lời số 379/UBNDNC ngày 26/01/2024 của Ủy ban nhân dân huyện V xác định diện tích mà ông L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và diện tích đo đạc thực tế có sự chênh lệch có thể là do quá trình kê khai của hộ dân trước đây không đúng và việc thành lập bản đồ dựa trên bản đồ không ảnh chưa được chính xác, thiếu kiểm tra thực địa. Ngoài ra, trên phần đất thế chấp có diện tích mồ mã 107,6m2. Đáng lẽ, trong quá trình thẩm định cho vay, Ngân hàng không nên nhận thế chấp phần diện tích có mồ mã, điều này sẽ gây khó khăn cho việc thi hành án, cũng như về mặt đạo đức xã hội.

[3.3]. Quá trình làm việc tại Tòa án cũng như tại phiên tòa hôm nay, ông Mạc Phong V là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP Q đồng ý không xử lý phần diện tích mồ mã, đồng ý xử lý diện tích thế chấp theo diện tích đo đạc thực tế là 4.201,3m2. Tuy nhiên, căn cứ vào giấy ủy quyền số 79/2023/UQ-NCB ngày 22/8/2023 của Ngân hàng TMCP Q, tại khoản 2 của Giấy ủy quyền, ông Mạc Phong V không có quyền định đoạt việc rút một phần diện tích đối với hợp đồng thế chấp. Do đó, Hội đồng xét xử chỉ ghi nhận và giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Từ các vấn đề phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét xét thấy ranh đất với các hộ giáp ranh rõ ràng, các bên sử dụng ổn định không ai phát sinh tranh chấp, việc cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng cho ông Lương Văn L vào năm 2006 là không có đo đạc thực tế, cấp theo bảng đồ khung ảnh, từ đó dẫn đến diện tích sử dụng thực tế và diện tích được cấp có sự chênh lệch. Có căn cứ chấp chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Q về xử lý tài sản thế chấp có diện tích đo đạc thực tế 4.201,3m2; cần tuyên vô hiệu một phần hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Q với ông Lương Văn L, bà Nguyễn Thị A đối với diện tích đất khu mồ mã là 107,6m2 có vị trí, như sau:

Hướng Đông giáp một phần bà Thảo đang sử dụng có số đo 54,42m và một phần giáp với ông L đang sử dụng thửa thế chấp số 323 có số đo 35,21m; 4,25m.

Hướng Tây giáp một phần thửa thế chấp 323 ông L đang sử dụng có số đo 54,58m; 35,54m; 3,45m; 4,25m;

Hướng Nam giáp đường bê tông có số đo 1m Hướng Bắc giáp một phần thửa thế chấp 323 ông L đang sử dụng có số đo 4,45m.

[4]. Trường hợp ông Lương Đại P không thanh toán hoặc thanh toán nợ không đầy đủ cho Ngân hàng TMCP Q thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án bán đấu giá tài sản thế chấp Quyền sử dụng đất số số phát hành AG 111934, số vào sổ cấp giấy H15.234, thửa 323, tờ bản đồ số 5, diện tích theo giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất là 5253m2 ( diện tích theo đo đạc thực tế là 4.201,3m2 đã trừ đi phần diện tích khu mồ mã) tọa lạc ấp Bắc Hưng, xã V, huyện V, tỉnh B, được Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/9/2006 cho ông Lương Văn L và kể cả các tài sản gắn liền với đất là 01 căn nhà chính kết cầu móng khung sườn bê tông cốt thep, vách tường xây, nền gạch men, mái tol thiếc. Một căn nhà phụ sau nhà chính có kết cấu cột bê tông, vách tường xây + thiếc, nền xi măng, mái tol xi măng. Một nhà tạm sau nhà phụ có kết cấu cây gỗ địa phương, nền xi măng, vách thiếc, mái tol xi măng + thiếc; 01 nhà vệ sinh, vách tường xây có hầm tự hoại; một mái che chuồng heo có kết câu cột bê tông, gạch xây chuồng heo cao 0,8m, nền xi măng, mái tol xi măng; một bàn thờ Ông Thiên xây gạch; nền xi măng trước và xung quanh nhà; một nhà mồ có 02 ngôi mộ;

Về cây trồng: 26 cây dừa, 05 cây mai, 01 cây me, 06 cây xoài, 04 cây mít, 02 cây mận, 14 cây tha la. Tất cả các tài sản và cây trồng nêu trên là của ông L và hiện do ông L quản lý, sử dụng cùng với P, P và bà A.

[5]. Về án phí và các chi phí tố tụng:

Về án phí: Ông Lương Đại P phải chịu số tiền án phí 34.181.619 đồng, nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V. Ngân hàng Q không phải chịu án phí, Ngân hàng đã nộp tạm ứng án phí số tiền 17.084.511 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0003697 ngày 16/10/2023, được hoàn lại tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V.

Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ông Lương Đại P phải chịu tiền chi phí thẩm định tại chỗ. Ngân hàng Q đã nộp tạm ứng chi phí thẩm định 6.973.216 đồng, đã chi phí hết, ông Lương Đại P có trách nhiệm hoàn lại cho Ngân hàng Q số tiền 6.973.216 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V.

[6] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 156, khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Q đối với ông Lương Đại P về tranh chấp hợp đồng tín dụng.

2. Buộc ông Lương Đại P có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Q số tiền số tiền 754.542.481 đồng (bảy trăm năm mươi bốn triệu năm trăm bốn mươi hai nghìn bốn trăm tám mươi mốt đồng), trong đó tiền vốn gốc 449.999.995 đồng (bốn trăm bốn mươi chín triệu chín trăm chín mươi chín nghìn chín trăm chín mươi lăm đồng) và tiền lãi đến ngày 01 tháng 3 năm 2024 là 304.542.486 đồng (ba trăm lẻ bốn triệu năm trăm bốn mươi hai nghìn bốn trăm tám mươi sáu đồng).

Kể từ ngày 02 tháng 3 năm 2024 ông Lương Đại P còn phải tiếp tục trả khoản tiền lãi quá hạn đối với số tiền dư nợ gốc chưa thanh toán cho Ngân hàng Q theo mức lãi suất thỏa thuận của hợp đồng đến khi thanh toán hết nợ. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng Q thì lãi suất mà ông Lương Đại P phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng Q theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Q.

3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Q về yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất số phát hành AG 111934, số vào sổ cấp giấy H15.234, thửa 323, tờ bản đồ số 5, có diện tích theo đo đạc thực tế là 4.201,3m2 tọa lạc ấp Bắc Hưng, xã V, huyện V, tỉnh B, được Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/9/2006 cho ông Lương Văn L có vị trí, số đo như sau:

Hướng Đông giáp một phần đất đường đi vào khu mộ do ông L đang sử dụng có số đo 54,58m; một phần giáp với ông Huỳnh Văn Kiên đang sử dụng có số đo 64,91m;

Hướng Tây giáp một phần đất ông Lương Văn L đang sử dụng có số đo 38,51m;

23,33m; 5,39m; 5,78m; 49,32m và giáp một phần Lương Văn Quang đang sử dụng có số đo 8,80m;

Hướng Nam giáp đường bê tông có số đo 01m.

Hướng Bắc giáp đất ông Lương Văn L đang sử dụng có số đo 33,90m.

Phần tài sản gắn liền với đất: Có 01 căn nhà chính kết cầu móng khung sườn bê tông cốt thep, vách tường xây, nền gạch men, mái tol thiếc. Một căn nhà phụ sau nhà chính có kết cấu cột bê tông, vách tường xây + thiếc, nền xi măng, mái tol xi măng. Một nhà tạm sau nhà phụ có kết cấu cây gỗ địa phương, nền xi măng, vách thiếc, mái tol xi măng + thiếc; 01 nhà vệ sinh, vách tường xây có hầm tự hoại; một mái che chuồng heo có kết câu cột bê tông, gạch xây chuồng heo cao 0,8m, nền xi măng, mái tol xi măng; một bàn thờ Ông Thiên xây gạch; nền xi măng trước và xung quanh nhà; một nhà mồ có 02 ngôi mộ;

Về cây trồng: 26 cây dừa, 05 cây mai, 01 cây me, 06 cây xoài, 04 cây mít, 02 cây mận, 14 cây tha la. Tất cả các tài sản và cây trồng nêu trên là của ông L và hiện do ông L quản lý, sử dụng cùng với ông P, ông P và bà A.

4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Q về yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất số phát hành AG 111934, số vào sổ cấp giấy H15.234, thửa 323, tờ bản đồ số 5, có diện tích theo đo đạc thực tế là 107,6m2 (phần đất khu mộ và đường vào khu mộ) tọa lạc ấp Bắc Hưng, xã V, huyện V, tỉnh B, được Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/9/2006 cho ông Lương Văn L có vị trí, số đo như sau:

Hướng Đông giáp một phần bà Thảo đang sử dụng có số đo 54,42m và một phần giáp với ông L đang sử dụng thửa thế chấp số 323 có số đo 35,21m; 4,25m.

Hướng Tây giáp một phần thửa thế chấp 323 ông L đang sử dụng có số đo 54,58m;

35,54m; 3,45m; 4,25m;

Hướng Nam giáp đường bê tông có số đo 1m;

Hướng Bắc giáp một phần thửa thế chấp 323 ông L đang sử dụng có số đo 4,45m. (Trích đo địa chính thửa đất là một phần không thể tách rời bản án).

5. Trường hợp ông Lương Đại P không thanh toán hoặc thanh toán nợ không đầy đủ nợ cho Ngân hàng Q thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án bán đấu giá tài sản thế chấp theo diện tích, vị trí, số đo và các tài sản gắn liền với đất tại mục 3 của phần Quyết định của Bản án này.

6. Về án phí và các chi phí tố tụng:

6.1. Về án phí: Ông Lương Đại P phải chịu số tiền án phí 34.181.619 đồng, nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V. Ngân hàng Q không phải chịu án phí, Ngân hàng đã nộp tạm ứng án phí số tiền 17.084.511 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0003697 ngày 16/10/2023, được hoàn lại tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V.

6.2. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ông Lương Đại P phải chịu tiền chi phí thẩm định tại chỗ. Ngân hàng Q đã nộp tạm ứng chi phí thẩm định 6.973.216 đồng, đã chi phí hết, ông Lương Đại P có trách nhiệm hoàn lại cho Ngân hàng Q số tiền 6.973.216 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời gian 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 01/2024/KDTM-ST

Số hiệu:01/2024/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lợi - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 01/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về