Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 01/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TX, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 01/2024/DS-ST NGÀY 25/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 25 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TX, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 14/2023/TLST-DS ngày 17 tháng 7 năm 2023 về việc “tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2023/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Phương Đông.

Địa chỉ: 41&45 đường Lê Duẩn, phường BN, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Văn T – chức vụ: Chủ tịch HĐQT.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Minh Đ – chức vụ: Phó Giám đốc chi nhánh Thanh Hóa. (Theo Giấy ủy quyền số: 16/2023/UQ-CT-HĐQT, ngày 14/3/2023 của Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Phương Đông) Người đại diện theo ủy quyền lại của ông Lê Minh Đ: Ông Nguyễn Trung C; Sinh năm 1989.

Địa chỉ: Lô 01–02 đường Phan Chu Trinh, phường Điện Biên, TP. Thanh Hóa - Theo Giấy ủy quyền số: 05/2023/UQ-OCB-THN, ngày 05/6/2023 của Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Phương Đông (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: - Ông Hoàng Như K; Sinh năm: 1971.

- Bà Nguyễn Thị D; Sinh năm 1975.

Cùng địa chỉ: Thôn Ngọc Thượng, xã L, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 05/6/2023 và các lời khai, tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 10/01/2022 Ngân hàng TMCP Phương Đông (Gọi tắt là: Ngân hàng OCB) – Chi nhánh Thanh Hóa và vợ chồng ông Hoàng Như K, bà Nguyễn Thị D, trú tại thôn Ngọc Thượng, xã L, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa ký kết hợp đồng tín dụng theo hợp đồng vay số: 604/2022/HĐTD–CN với số tiền vay là 700.000.000đ (Bảy trăm triệu đồng) với mức lãi suất, thời hạn vay, mục đích vay và kỳ hạn trả nợ được thể hiện theo quy định tại HĐTD và Khế ước nhận nợ. Để bảo đảm khoản vay thì vợ chồng ông K, bà D có thế chấp tài sản bảo đảm cho Ngân hàng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 102 tờ bản đồ số 25-BĐĐC chính quy xã L theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 796833, số vào sổ cấp GCN: CH 01034 D UBND huyện TX tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 08/5/2013. Địa chỉ: Thôn Ngọc Thượng, xã L, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa. Chủ sở hữu là ông Hoàng Như K và bà Nguyễn Thị D.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng vay, vợ chồng ông K, bà D đã trả cho Ngân hàng tính đến ngày khởi kiện (05/6/2023) số tiền: 176.551.069đ, trong đó nợ gốc là: 81.666.662đ, nợ lãi trong hạn: 92.980.557đ, nợ lãi quá hạn: 1.903.850đ. Từ ngày 05/01/2023 đến nay vợ chồng ông K, bà D đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. D đó Ngân hàng đã chuyển toàn bộ khoản vay của ông K, bà D sang nợ quá hạn với mức lãi suất quá hạn theo thỏa thuận trong Hợp đồng vay và Khế ước nhận nợ tại Ngân hàng OCB – Chi nhánh Thanh Hóa. Ngân hàng OCB chi nhánh Thanh Hóa đã nhiều lần làm việc và gửi Công văn thông báo nợ, thông báo xử lý tài sản bảo đảm đến ông K, bà D để yêu cầu ông K, bà D thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với Ngân hàng, nhưng ông K, bà D không thực hiện. Vì vậy Ngân hàng OCB khởi kiện các bị đơn Hoàng Như K, Nguyễn Thị D ra Tòa án nhân dân huyện TX, đề nghị Tòa án giải quyết các yêu cầu sau:

1. Buộc các bị đơn Hoàng Như K, Nguyễn Thị D phải trả số tiền nợ gốc, lãi cho Ngân hàng, tạm tính đến ngày 05/6/2023 là: 644.461.613đ, trong đó: Nợ gốc là: 618.333.338; Nợ lãi là: 26.128.275đ và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký cho đến khi ông Hoàng Như K và bà Nguyễn Thị D hoàn thành nghĩa vụ trả nợ vay cho Ngân hàng TMCP Phương Đông.

2. Nếu ông K, bà D không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì Ngân hàng OCB có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp công chứng số: 604/2022/BĐ-CN, ngày 10/01/2022 để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật, tài sản bảo đảm là:

Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất tại thửa đất số 102 tờ bản đồ số 25-BĐĐC chính quy, địa chỉ: Thôn Ngọc Thượng, xã L, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất số: BN 796833 D UBND huyện TX cấp ngày 08/5/2013 cho ông Hoàng Như K, bà Nguyễn Thị D, theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất công chứng số: 604/2022/BĐ-CN, ngày 10/01/2022 giữa Ngân hàng OCB và ông Hoàng Như K, bà Nguyễn Thị D.

Trong quá trình giải quyết vụ án ông K, bà D tiếp tục thanh toán được cho Ngân hàng OCB số tiền: 86.800.036đ; trong đó nợ gốc là: 35.298.842đ, nợ lãi trong hạn: 48.212.512đ, nợ lãi quá hạn: 3.288.682đ. Tổng số tiền gốc và lãi vợ chồng ông K, bà D đã thanh toán cho Ngân hàng OCB tính đến ngày 25/01/2024 là: 263.351.105đ.

Tại phiên tòa vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn nhưng đã có bản tự khai đề nghị Tòa án buộc các bị đơn ông Hoàng Như K, bà Nguyễn Thị D phải trả số tiền nợ gốc và nợ lãi theo Hợp đồng cho vay và Giấy nhận nợ đã ký, số tiền tạm tính đến ngày 25/01/2024 là: 613.449.135đ, Trong đó: Nợ gốc là: 583.034.496đ; lãi trong hạn là: 28.856.269đ, lãi quá hạn là: 1.558.370đ; Buộc ông K, bà D phải tiếp tục trả lãi phát sinh theo mức lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng vay và Khế ước nhận nợ, kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến ngày thực tế ông K, bà D trả hết nợ cho Ngân hàng OCB. Nếu ông K, bà D không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì Ngân hàng OCB có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

- Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đề nghị Ngân hàng OCB chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng, niêm yết công khai theo quy định của pháp luật; Thông báo thụ lý vụ án; Giấy triệu tập đến Tòa án để tự khai; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử cho nguyên đơn, bị đơn, tuy nhiên bị đơn vẫn vắng mặt không có lý D, vì vậy vụ án thuộc trường hợp không thể tiến hành hòa giải được.

Qua xác minh tại địa phương thì ông Hoàng Như K và bà Nguyễn Thị D có hộ khẩu thường trú tại thôn Ngọc Thượng, xã L, huyện TX, hiện tại bà D đang có mặt tại địa phương, ông K đang đi làm ăn xa không có mặt ở địa phương; các giấy tờ tố tụng Tòa án nhân dân huyện TX đã tống đạt cho ông K bà D tại gia đình để bị đơn biết và thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhưng bà D từ chối không nhận, cố tình gây khó khăn cho hoạt động tố tụng của Tòa án, vì vậy Tòa án đã thực hiện việc niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Vào ngày 03 tháng 01 năm 2024, Tòa án đã mở phiên tòa đưa vụ án ra xét xử, đã niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập hợp lệ, nhưng các bị đơn vẫn vắng mặt không có lý D. Tòa án nhân dân huyện TX đã ra quyết định hoãn phiên tòa, niêm yết công khai quyết định hoãn phiên tòa theo quy định. Tại phiên tòa hôm nay một lần nữa các bị đơn vắng mặt không có lý D.

- Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 28/11/2023 thể hiện: thửa đất số 102, tờ bản đồ số 25 tại thôn Ngọc Thượng, xã L, huyện TX mà ông K, bà D đang sử dụng có tổng diện tích 676m2; tài sản trên đất gồm:

01 ngôi nhà mái bằng diện tích 150m2; 01 nhà ngang (bếp) diện tích 40m2; 01 nhà máy sát lúa (lợp plo xi măng) diện tích 21,6m2; 01 chuồng lợn diện tích 42,9m2; 01 mái tôn (che sân) diện tích 86,24m2; 01 nhà kho (cạnh nhà chính) diện tích:

22,2m2. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đề nghị Tòa án căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử đụng đất đã cấp cho các bị đơn để tuyên xử theo quy định của pháp luật.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, vụ án thụ lý đúng thẩm quyền, đúng quan hệ pháp luật và đúng thời hạn; xác định đầy đủ tư cách của những người tham gia tố tụng; thu thập chứng cứ đầy đủ; cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng đúng quy định; quyết định đưa vụ án ra xét xử và gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng thời hạn quy định.

- Việc tuân theo pháp luật của Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử: Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử có mặt tại phiên tòa đúng với Quyết định đưa vụ án ra xét xử và không thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Phiên tòa diễn ra đúng các thủ tục quy định.

- Đối với việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Các bị đơn ông Hoàng Như K, bà Nguyễn Thị D không chấp hành các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.

- Về nội dung vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điểm b, khoản 2 Điều 227, Điều 238; Khoản 2 Điều 21; Các Điều 147, 271, 273, 278 và 280 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Các Điều 223, 280, 305, 429, 463,466,468 Bộ luật dân sự 2015.

- Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 và điểm c tiểu mục 1.3, mục II danh mục án phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc các bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc, tiền lãi tính đến ngày 25/01/2024 là 613.449.135đ, Trong đó: Nợ gốc là: 583.034.496đ; lãi trong hạn là: 28.856.269đ, lãi quá hạn là: 1.558.370đ. Các bị đơn phải tiếp tục trả lãi phát sinh theo mức lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng vay, kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến ngày các bị đơn trả hết nợ cho Ngân hàng TMCP Phương Đông. Nếu các bị đơn không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, thì Ngân hàng TMCP Phương Đông có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả thảo luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Ngân hàng OCB khởi kiện ông Hoàng Như K, bà Nguyễn Thị D yêu cầu Tòa án buộc ông K, bà D phải trả số tiền nợ gốc và lãi theo Hợp đồng cho vay đã ký giữa Ngân hàng với ông K, bà D. Đây là tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn ông Hoàng Như K, bà Nguyễn Thị D có nơi cư trú tại thôn Ngọc Thượng, xã L, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa. Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện TX, tỉnh Thanh Hóa có thẩm quyền giải quyết vụ án.

Về sự vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa: Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng măt; Các bị đơn đã được Tòa án niêm yết công khai quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập hợp lệ. Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay các bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý D. Xét thấy sự vắng mặt của các bị đơn không thuộc trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào Điều 227, 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

2.1. Xét tính hợp pháp của Hợp đồng tín dụng số: số 604/2022/HĐTD–CN, ngày 10/01/2022, được ký kết giữa Ngân hàng OCB – Chi nhánh Thanh Hóa và ông K, bà D: Các bên tham gia ký kết Hợp đồng có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo Đ xã hội và phù hợp với quy định tại Điều 463 của Bộ luật dân sự 2015 và Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng. Vì vậy, quyền và nghĩa vụ của các bên được pháp luật bảo vệ. Quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng, ông K, bà D đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ kể từ ngày 05/01/2023 ông K, bà D trả nợ không theo đúng các kỳ đã thỏa thuận và không trả lãi theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết là vi phạm Hợp đồng tín dụng, vi phạm Điều 466 của Bộ luật dân sự 2015.

Về lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn được thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng, Khế ước nhận nợ giữa Ngân hàng OCB và ông K, bà D phù hợp với Điều 91, Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng.

Đến ngày 25/01/2024 thì ông K, bà D còn nợ Ngân hàng OCB – Chi nhánh Thanh Hóa số tiền là: 613.449.135đ, Trong đó: Nợ gốc là: 583.034.496đ; lãi trong hạn là: 28.856.269đ, lãi quá hạn là: 1.558.370đ. Vì vậy nguyên đơn khởi kiện yêu cầu các bị đơn có nghĩa vụ trả toàn bộ số nợ trên là có căn cứ, phù hợp và đúng quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

2.2. Xét Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất số: 604/2022/BĐ–CN, ngày 10/01/2022 giữa Ngân hàng OCB – Chi nhánh Thanh Hóa và ông K, bà D đã ký kết: Các bên tham gia ký kết có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo Đ xã hội và phù hợp với quy định tại Điều 317 của Bộ luật dân sự 2015. Hợp đồng thế chấp đã được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, quyền và nghĩa vụ của các bên được pháp luật bảo vệ.

Về xử lý tài sản bảo đảm: Theo quy định tại Điều 299, Điều 300 và Điều 303 của Bộ luật dân sự 2015 và Điều 5 của Hợp đồng thế chấp, D ông K, bà D không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng OCB có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.

Đối với thửa đất và tài sản trên đất qua xem xét, thẩm định tại chỗ thì thấy diện tích của thửa đất gia đình ông K, bà D đang sử dụng đúng với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thửa đất trên vẫn giữ nguyên hiện trạng và tài sản trên đất đúng như tại thời điểm ký kết hợp hợp đồng thế chấp. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đề nghị Tòa án căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử đụng đất đã cấp cho các bị đơn để tuyên xử theo quy định của pháp luật.

Về yêu cầu các bị đơn phải tiếp tục trả toàn bộ số tiền nợ theo Hợp đồng tín dụng số: 604/2022/HĐTD–CN, ngày 10/01/2022 kèm theo Khế ước nhận nợ số: 604/2022/KUNN–CN, ngày 11/01/2022, nếu toàn bộ số tiền thu được từ việc phát mãi, xử lý tài sản bảo đảm sau khi trừ đi các chi phí tố tụng, thi hành án theo quy định của pháp luật mà không đủ thanh toán hết nghĩa vụ trả nợ của các bị đơn cho Ngân hàng OCB. Xét thấy yêu cầu này phù hợp với Điều 299 của Bộ luật dân sự 2015, nên được chấp nhận.

[3] Về án phí và chi phí tố tụng khác:

* Về án phí: D yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, nên các bị đơn phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 và điểm c, tiểu mục 1.3, mục II danh mục án phí Tòa án.

Trả lại cho nguyên đơn toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TX, tỉnh Thanh Hóa.

*Về chi phí tố tụng khác: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điểm b, khoản 2 Điều 227, Điều 238; Khoản 2 Điều 21; Các Điều 147, 271, 273, 278 và 280 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Các Điều 223, 280, 305, 429, 463,466,468 Bộ luật dân sự 2015.

- Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

- Các Điều 27,37 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 và điểm c tiểu mục 1.3, mục II danh mục án phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Ngân hàng Phương Đông (OCB) - Về nghĩa vụ trả nợ: Buộc các bị đơn ông Hoàng Như K và bà Nguyễn Thị D phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng OCB tổng số tiền tính đến hết ngày 25/01/2024 là: 613.449.135đ (Sáu trăm mười ba triệu, bốn trăm bốn chín nghìn, một trăm ba lăm đồng), Trong đó: Nợ gốc là: 583.034.496đ (Năm trăm tám ba triệu, không trăm ba bốn nghìn, bốn trăm chín sáu đồng); lãi trong hạn là:

28.856.269đ (Hai tám triệu, tám trăm năm sáu nghìn, hai trăm sáu chín đồng), lãi quá hạn là: 1.558.370đ (Một triệu, năm trăm năm tám nghìn, ba trăm bay mươi đồng).

Kể từ ngày xét xử sơ thẩm (25/01/2024) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số: 604/2022/HĐTD-CN ngày 10/01/2022, kèm theo Khế ước nhận nợ số: 604/2022/KUNN-CN ngày 11/01/2022.

2. Về xử lý tài sản bảo đảm:

+ Trường hợp ông Hoàng Như K và bà Nguyễn Thị D không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng OCB thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất tại thôn Ngọc Thượng, xã L, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 604/2022/BĐ-CN ngày 10/01/2022 để thu hồi nợ.

+ Trường hợp toàn bộ số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm sau khi trừ đi các chi phí tố tụng, thi hành án theo quy định của pháp luật không đủ thanh toán hết nghĩa vụ trả nợ thì ông Hoàng Như K và bà Nguyễn Thị D tiếp tục trả hết toàn bộ số tiền nợ theo Hợp đồng tín dụng số: 604/2022/HĐTD-CN, ngày 10/01/2022 kèm theo Khế ước nhận nợ số: 604/2022/KUNN– CN, ngày 11/ 01/2022 của Ngân hàng OCB.

3. Về án phí:

Buộc ông Hoàng Như K và bà Nguyễn Thị D phải liên đới chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là: 28.537.965đ (Hai tám triệu, năm trăm ba bảy nghìn, chín trăm sáu lăm đồng).

Trả lại cho Ngân hàng OCB số tiền 16.111.000đ (Mười sáu triệu một trăm mười một nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2022/0002484 ngày 17 tháng 7 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện TX.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại khoản 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, các bị đơn. Những người này có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết công khai. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 01/2024/DS-ST

Số hiệu:01/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thường Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về