Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 01/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 01/2023/DS-ST NGÀY 30/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 30 tháng 5 năm 2023, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 05/2023/TLST-DS ngày 02 tháng 3 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2023/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự;

* Nguyên đơn : Ngân hàng Hợp tác xã (HTX) Việt N Địa chỉ trụ sở chính: Tòa nhà N04, Hoàng Đạo Th, quận Cầu G, thành phố Hà N Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quang H - Chức vụ; Cán bộ tín dụng Phòng Giao dịch số 01 - Chi nhánh Phú Th - Ngân hàng HTX Việt N Địa chỉ Phòng Giao dịch: Số 2448, Đường Hùng V, phường Vân C, thành phố Việt Tr, tỉnh Phú Th

* Bị đơn:  Anh Trần Duy M ; sinh năm, 1987, nơi cư trú; khu 4, xã Sóc Đ, huyện Đoan H, tỉnh Phú Th và chị Nguyễn Thị Q; sinh năm 1990, nơi cư trú; tổ 21A, khu 2B, phường Nông Tr, thành phố Việt Tr, tỉnh Phú Th

Đại diện Ngân hàng và anh M có mặt, chị Q đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, lời khai trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn là ông Nguyễn Quang H trình bày về nội dung và yêu cầu khởi kiện như sau:

Ngày 16/4/2018, Phòng Giao dịch số 01 - Chi nhánh Phú Thọ - Ngân hàng HTX Việt N và vợ chồng anh Trần Duy M, chị Nguyễn Thị Q đã ký kết “Hợp đồng cho vay” số TDDHY02/HĐCV, theo đó Phòng Giao dịch số 01 - Chi nhánh Phú Th - Ngân hàng HTX Việt Nam cho vợ chồng anh M, chị Q vay số tiền 150.000.000.đ (một trăm năm mươi triệu đồng); hình thức vay tín chấp; nguồn trả nợ là lương của anh M; mục đích vay đề sửa nhà ở; thời hạn vay 60 tháng; giải ngân ngày 16/4/2018; lãi suất 11,19%/năm; trả nợ gốc trong 60 kỳ; mỗi kỳ trả 2.500.000.đ; lãi trả cùng với kỳ trả nợ gốc.

Quá trình thực hiện hợp đồng, bên vay tiền là vợ chồng anh M, chị Q đã không thực hiện đúng và đầy đủ việc trả nợ tiền gốc và tiền lãi theo cam kết, cụ thể: Tiền lãi mới trả đến hết ngày 31/10/2020. Tính đến hết ngày 30/5/2023 thì số tiền gốc mà anh M, chị Q còn nợ Ngân hàng là 108.000.000.đ; nợ tiền lãi là 34.018.854.đ; nợ tiền lãi tính trên lãi chậm trả là 1.990.219.đ; tổng số tiền gốc và tiền lãi còn nợ là 144.009.073.đ.

Trong suốt quá trình vay, vợ chồng anh M, chị Q liên tục vi phạm nghĩa vụ trả nợ tiền gốc và tiền lãi. Nay khoản vay trên đã hết hạn từ ngày 16/4/2023, mặc dù Ngân hàng đã thông báo, đôn đốc nhắc nhở nhiều lần nhưng anh M, chị Q vẫn không tự nguyện trả nợ vì vậy Ngân hàng yêu cầu anh M phải có nghĩa vụ trả cho Phòng Giao dịch số 01 - Chi nhánh Phú Th - Ngân hàng HTX Việt N toàn bộ số tiền gốc và tiền lãi còn nợ của “Hợp đồng cho vay” số TDDHY02/HĐCV ngày 16/4/2018 tính đến hết ngày 30/5/2023 là 144.009.073.đ (một trăm bốn mươi bốn triệu không trăm linh chín nghìn không trăm bảy mươi ba đồng) và tiếp tục trả lãi phát sinh cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ đối với toàn bộ khoản vay trên.

* Về phía bị đơn là anh Trần Duy M, chị Nguyễn Thị Q trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh M có mặt đều xác nhận ngày 16/4/2018, anh và vợ là chị Nguyễn Thị Q có vay tiền của Phòng Giao dịch số 01 - Chi nhánh Phú Th - Ngân hàng HTX Việt N số tiền 150.000.000.đ đúng như đại diện Ngân hàng đã trình bày. Năm 2019, anh và chị Q ly hôn nhưng không giải quyết về vay nợ tuy nhiên anh và chị Q đã thống nhất với nhau là toàn bộ số nợ của Ngân hàng anh sẽ có nghĩa vụ trả. Sau khi vay, do gặp khó khăn về kinh tế nên anh không trả được tiền nợ gốc và tiền lãi đúng hạn như đã cam kết trong hợp đồng nên Ngân hàng khởi kiện anh là hoàn toàn đúng. Anh M xác nhận tính đến hết ngày 30/5/2023, anh còn nợ Ngân hàng HTX số tiền gốc là 108.000.000.đ; tiền lãi là 34.018.854.đ và tiền lãi chậm trả là 1.990.219.đ; tổng số tiền gốc và tiền lãi còn đang nợ là 144.009.073.đ, anh đồng ý trả nợ cho Ngân hàng nhưng do kinh tế khó khăn nên đề nghị Ngân hàng tạo điều kiện cho được trả dần số nợ trên, anh sẽ tiếp tục trả tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận trong hợp đồng và quy định của Ngân hàng.

- Chị Nguyễn Thị Q vắng mặt nhưng có lời trình bày xác nhận khi chị và anh M đang còn là vợ chồng có vay tiền của Ngân hàng HTX đúng như đại diện Ngân hàng và anh M đã trình bày. Khi chị và anh M ly hôn đã thống nhất anh M sẽ chịu trách nhiệm trả toàn bộ số nợ cho Ngân hàng. Nay Ngân hàng HTX khởi kiện, chị đề nghị anh M phải có nghĩa vụ trả toàn bộ số nợ này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là chị Nguyễn Thị Q có đơn đề nghị giải quyết và xét xử vắng mặt vì vậy Tòa án cũng không tiến hành hòa giải được vụ án và quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ tranh chấp và áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án: Nguyên đơn là Ngân hàng HTX Việt N khởi kiện để yêu cầu Trần Duy M, có địa chỉ tại khu 4, xã Sóc Đ, huyện Đoan H và chị Nguyễn Thị Q, có địa chỉ tại khu 2B, phường Nông Tr, thành phố Việt Tr phải có nghĩa vụ trả nợ tiền vay theo “Hợp đồng cho vay” số TDDHY02/HĐCV ngày 16/4/2018. Tranh chấp phát sinh do vi phạm thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng giữa tổ chức tín dụng với cá nhân do vậy Tòa án nhân dân huyện Đoan H thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và điểm h khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự và sẽ áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Các tổ chức tín dụng để giải quyết vụ án.

[3]. Về nội dung tranh chấp và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu của bị đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hợp đồng cho vay số TDDHY02/HĐCV ngày 16/4/2018 giữa Phòng Giao dịch số 01 - Chi nhánh Phú Th - Ngân hàng HTX Việt N và anh Trần Duy M, chị Nguyễn Thị Q được ký kết trên cơ sở tự nguyện, được pháp luật cho phép thực hiện, tuân thủ đúng pháp luật về nội dung, hình thức của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 và Điều 119 của Bộ luật Dân sự do vậy đã làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên và các bên đều phải có nghĩa vụ thực hiện các thỏa thuận đã cam kết trong hợp đồng.

Về phía Ngân hàng, sau khi ký kết hợp đồng cho vay đã thực hiện đúng thỏa thuận. Tuy nhiên, phía bị đơn là anh M, chị Q lại không thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền gốc và tiền lãi đúng thời hạn như đã cam kết trong hợp đồng, toàn bộ khoản vay cũng đã hết hạn từ ngày 16/4/2023 nhưng anh M, chị Q vẫn chưa thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ tiền gốc và tiền lãi.

Tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng và anh M đều thống nhất xác nhận tính đến hết ngày 30/5/2023, anh M còn nợ Ngân hàng HTX số tiền gốc là 108.000.000.đ; nợ tiền lãi là 34.018.854.đ và tiền lãi chậm trả là 1.990.219.đ; tổng số tiền gốc và tiền lãi anh M phải trả là 144.009.073.đ (một trăm bốn mươi bốn triệu không trăm linh chín nghìn không trăm bảy mươi ba đồng). Do anh M vi phạm thời hạn trả nợ và toàn bộ khoản vay cũng đã hết hạn nên Ngân hàng yêu cầu anh M phải trả toàn bộ số tiền gốc, tiền lãi đang nợ và tiếp tục trả lãi phát sinh cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ, còn về anh phía M đề nghị được trả nợ dần.

Xét yêu cầu của các bên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, các đương sự đều thống nhất xác nhận về số tiền còn nợ nhưng không thống nhất được về phương thức và thời hạn trả nợ. Việc anh M không thực hiện đúng cam kết trả nợ tiền gốc và tiền lãi đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng do vậy Ngân hàng khởi kiện yêu cầu anh M phải trả toàn bộ số tiền nợ gốc và tiền lãi là hoàn toàn có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nghĩa vụ trả nợ: Khi vay thì anh M và chị Quỳnh đang là vợ chồng, cùng ký kết hợp đồng vay vì vậy anh M và chị Q đều phải có nghĩa vụ đối khoản nợ nhưng sau đó anh M, chị Q ly hôn và thống nhất anh M sẽ chịu trách nhiệm trả toàn bộ khoản nợ này. Tại phiên tòa đại diện Ngân hàng cũng chấp nhận để cho anh M trả toàn bộ khoản nợ vì vậy buộc anh M phải có nghĩa vụ trả toàn bộ khoản nợ cho Ngân hàng theo quy định.

Ngoài số tiền nợ gốc và tiền lãi phải trả như đã nêu trên, thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, anh M còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho vay cho đến khi thi hành án xong.

[4]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí sơ thẩm và được hoàn trả lại toàn bộ số tiền đã nộp tạm ứng án phí. Bị đơn là anh M phải chịu toàn bộ tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5]. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đoan H đã phát biểu quan điểm về vụ án, xác định quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điểu 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 274, khoản 1 Điều 275, khoản 1 và khoản 2 Điều 278, Điều 280, Điều 282, Điều 463, Điều 466, khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 91 và khoản 1, khoản 2 Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng Hợp tác xã Việt N.

Buộc anh Trần Duy M phải có nghĩa vụ trả cho Phòng Giao dịch số 01 - Chi nhánh Phú Th - Ngân hàng HTX Việt N số tiền gốc còn nợ của “Hợp đồng cho vay” số TDDHY02/HĐCV ngày 16/4/2018 là 108.000.000.đ và tiền lãi (gồm tiền lãi và lãi chậm trả) tính đến hết ngày 30/5/2023 là 36.009.073.đ; tổng số tiền gốc và tiền lãi anh M phải trả cho Ngân hàng là 144.009.073.đ (một trăm bốn mươi bốn triệu không linh chín nghìn không trăm bảy mươi ba đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, anh Trần Duy M còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho vay. Trường hợp trong hợp đồng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi, lãi suất cho vay thì lãi, lãi suất mà anh M phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng được xác định theo thỏa thuận của các bên.

- Về án phí: Anh Trần Duy M phải nộp 7.200.453.đ (bảy triệu hai trăm nghìn bốn trăm năm mươi ba đồng) tiền phí dân sự sơ thâme.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng HTX Việt N - Chi nhánh Phú Th số tiền 3.400.000.đ (ba triệu bốn trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo“Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án” số AA/2020/0004347 ngày 02 tháng 3 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đoan H.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cảo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhậ được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 01/2023/DS-ST

Số hiệu:01/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đoan Hùng - Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về