Bản án về tranh chấp hợp đồng thuê tàu trần số 18/2023/KDTM-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 18/2023/KDTM-PT NGÀY 21/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THUÊ TÀU TRẦN

Ngày 21 tháng 07 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2023/TLPT-KDTM ngày 15 tháng 6 năm 2023 về việc tranh chấp hợp đồng thuê tàu trần.

Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 22/2023/QĐ-PT ngày 28 tháng 6 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 45/2023/QĐ-PT ngày 13 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty Container(tên công ty viết tắt VSG); Địa chỉ trụ sở chính: Tầng 12 Tòa nhà TNR Tower, số 180-192 Nguyễn CT, phường NB, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Đ - Chức danh: Chủ tịch hội đồng quản trị VSG; vắng mặt Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lưu Khang A và ông Nguyễn Trung H - Chức vụ: Cán bộ VSG; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 25/2022/UQ ngày 05/9/2022); đều có mặt

Bị đơn: Công ty AP(tên công ty viết tắt AP); Địa chỉ trụ sở: Thôn An Trại (tại nhà ông Trần Văn L), xã Al, huyện TN, thành phố Hải Phòng; Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn L - Chức danh: Giám đốc AP); có mặt Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ngân hàng thương mại cổ phần hàng hải Việt Nam (tên công ty viết tắt MSB); Địa chỉ trụ sở chính: Số 54A NCT, phường L, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội; Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hoàng L - Chức danh: Tổng giám đốc MSB; vắng mặt Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Mạnh L - Chức vụ: Chuyên viên cao cấp Phòng tố tụng MSB; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 3897/2020/UQ-TGĐ12 ngày 20/7/2020 và 8509/2022/GUQ-TGĐ12 ngày 07/11/2022); vắng mặt

- Người kháng cáo: Công ty AP

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, nội dung kháng cáo:

Trong đơn khởi kiện ngày 05 tháng 9 năm 2022 cùng các lời khai tại Tòa án và tại phiên toà, nguyên đơn là VSG trình bày: MSB là chủ sở hữu tàu Xuân Hiếu Group 286 theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tàu biển số VN-3926-VT do cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực Hải Phòng cấp ngày 04/12/2015. Ngày 09/7/2018 MSB và VSG ký Hợp đồng thuê tàu trần, theo đó MSB cho VSG thuê cả thuê cả đội tàu gồm 35 con tàu trong đó có bao gồm tàu Xuân Hiếu Group 286 nêu trên. Hợp đồng cũng quy định VSG có quyền cho bên thứ ba thuê lại tàu.

Căn cứ vào hợp đồng thuê tàu trần đã ký với MSB, VSG đã ký hợp đồng với AP, cụ thể như sau:

Ngày 28/4/2020 VSG và AP ký kết Hợp đồng thuê tàu trần số 01/2020/VSG- AP (gọi tắt là Hợp đồng số 01). Theo đó VSG cho AP thuê tàu Xuân Hiếu Group 286 với giá thuê tàu 160.000.000đồng/tháng (đã bao gồm thuế VAT) trong ba tháng đầu. Sau ba tháng sẽ được điều chỉnh theo quy định tại Hợp đồng đã ký; thời hạn thuê 36 tháng kể từ ngày bàn giao tàu; kỳ thanh toán và hình thức thanh toán: Thanh toán trong 15 ngày đầu hàng tháng; lãi suất chậm thanh toán là 20%/năm. Bên thuê có nghĩa vụ đặt cọc số tiền là 600.000.000 đồng để thực hiện hợp đồng.

Quá trình thực hiện hợp đồng: Ngày 28/4/2020 VSG đã bàn giao tàu Xuân Hiếu Group 286 và đầy đủ hồ sơ pháp lý cả con tàu cho AP. AP đã nhận bàn giao tàu và đưa tàu vào khai thác. Trong quá trình thực hiện hợp đồng AP đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán cụ thể từ tháng 7/2021 AP không thanh toán đầy đủ cho VSG. Ngày 23/8/2022 VSG đã gửi công văn số 103A/2022/CV-VSG yêu cầu hoàn trả tàu Xuân Hiếu Group 286 do AP đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán quá 30 ngày làm việc, đồng thời yêu cầu hoàn trả tàu. Ngày 20/10/2022 AP đã hoàn trả tàu Xuân Hiếu Group 286 nhưng chưa thanh toán công nợ cho VSG. Nay VSG yêu cầu AP phải thanh toán cho VSG tổng số tiền tính đến hết ngày 23/3/2023 là 1.955.170.713 đồng (đã trừ đi 600.000.000 đồng tiền đặt cọc), trong đó tiền thuê tàu là 1.516.904.169 đồng, tiền lãi chậm thanh toán là 438.266.544 đồng và 0 đồng tiền phạt chậm bàn giao tàu. AP còn phải tiếp tục thanh toán tiền lãi do chậm thực hiện việc thanh toán tiền thuê tàu cho đến khi AP thực hiện xong việc thanh toán công nợ cho VSG theo hợp đồng đã ký. VSG rút yêu cầu AP phải trả tàu Xuân Hiếu Group 286.

Tại Biên bản hòa giải ngày 19/12/2022 người đại diện hợp pháp của bị đơn AP là ông Trần Văn L trình bày: AP ký hợp đồng thuê tàu (Hợp đồng số 01) với VSG để kinh doanh. Sau khi ký hợp đồng AP đã đặt cọc số tiền 600.000.000 đồng với điều kiện tàu hoạt động bình thường. Khi bàn giao tàu cho AP tàu không hoạt động được. Vì vậy AP phải cho tàu Xuân Hiếu Group 286 đi sửa chữa hết khoảng 2.700.000.000 đồng. AP thừa nhận và vẫn có trách nhiệm trả số tiền tạm tính đến ngày 19/12/2022 là 1.846.135.649 đồng và tiếp tục thanh toán tiền cước thuê tàu còn thiếu và tiền lãi chậm thanh toán cho đến khi AP trả hết nợ với điều kiện VSG phải trả AP số tiền sửa tàu khoảng 2.700.000.000 đồng và trình bày sẽ cung cấp tài liệu chứng cứ sau cho Tòa án.

Người đại diện hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan MSB là ông Hoàng Mạnh L trình bày:

Tàu Xuân Hiếu Group 286 là tàu thuộc sở hữu của MSB đã được cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực Hải Phòng cấp ngày 04/12/2015. Ngày 09/7/2018 MSB và VSG ký kết hợp đồng thuê tàu trần theo đó MSB cho VSG thuê đội tàu 35 con tàu trong đó có tàu Xuân Hiếu Group 286. Theo Hợp đồng thuê tàu trần VSG được quyền cho thuê lại đối với toàn bộ 35 tàu trên. Việc MSB cho VSG thuê tàu là hoàn toàn đúng quy định tại Điều 13 Nghị định 93/2017/NĐ-CP ngày 7/8/2017. Vì vậy việc thực hiện hợp đồng thuê tàu trần giữa VSG và AP là hợp pháp.

Việc AP không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thuê tàu cho VSG cũng ảnh hưởng đến việc VSG trả tiền thuê tàu cho MSB do đó MSB đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của VSG đối với AP và đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Với nội dung trên tại Bản án sơ thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 4, Điều 271, khoản 1 Điều 281, các điều 300, 301, 306 Luật Thương mại; các điều 116, 117, 119, 120, 274, 280, 328, 357, 428, 472, 473, 474, 475, 476, 477, 479, 481 Bộ luật Dân sự; các điều 215, 216, 229, 230, 231, 232, 233 Bộ luật Hàng hải; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Xử:1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. 1. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc AP phải trả cho VSG 01 con tàu Xuân Hiếu Group 286 theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tàu biển số VN-3926-VT do cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực Hải Phòng cấp ngày 04/12/2015.

1. 2. Buộc AP phải trả cho VSG tổng số tiền tính đến ngày 23/3/2023 là 1.955.170.713 đồng; trong đó: tiền thuê tàu là 1.516.904.169 đồng; tiền lãi chậm trả tiền thuê tàu là 438.266.544 đồng và 0 đồng tiền phạt chậm bàn giao tàu.

1. 3. Kể từ ngày 24/3/2023 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền thuê tàu còn phải thi hành theo mức lãi suất 20%/năm các bên thỏa thuận trong Hợp đồng thuê tàu trần số 01/2020/VSG- AP ngày 28/4/2020 đã ký kết giữa VSG và AP.

Ngoài ra bản án còn tuyên quyền án phí, kháng cáo của đương sự Sau khi xét xử sơ thẩm bị đơn kháng cáo đề nghị đối trừ khoản tiền 2.700.000.000 đồng công ty AP đã tiến hành sửa chữa trong thời gian thuê tàu trần đối với số tiền Công ty còn nợ Công ty Container(VSG) Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm bác toàn bộ đơn kháng cáo của bị đơn vì Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét do đó không thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, về số tiền thuê tàu và tiền lãi theo Bản án sơ thẩm đã tuyên bị đơn không có ý kiến gì chỉ đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm đối trừ với số tiền 2.700.000.000 đồng bị đơn đã tiến hành sửa chữa tàu trong thời gian thuê.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và phát biểu ý kiến về kháng cáo:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa, kháng cáo của nguyên đơn, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là vụ án Kinh doanh thương mại, tranh chấp hợp đồng thuê tàu trần thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

- Xét kháng cáo của bị đơn Công ty APvề việc đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm đối trừ khoản tiền 2.700.000.000 đồng công ty đã tiến hành sửa chữa trong thời gian thuê tàu trần đối với số tiền công ty còn nợ Công ty Cổ phần Container Phía Nam.

[2] Xét thấy: Ngày 19 tháng 10 năm 2022 Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên thụ lý vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 14/TB-TLVA giữa nguyên đơn Công ty Containervà bị đơn Công ty TNHH Hàng Hải AP. Ngày 19 tháng 10 năm 2022 Tòa án cấp sơ thẩm đã tống đạt trực tiếp thông báo thụ lý nêu trên và kềm theo giấy triệu tập cho Công ty TNHH Hàng Hải AP, người nhận là ông Trần Văn L – Chức vụ Giám đốc Công ty AP.

[3] Thông báo thụ lý vụ án Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ Điều 196 Bộ luật Tố tụng Dân sự đã nêu rõ: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo này, bị đơn và nguời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình về yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo hoặc yêu cầu độc lập (nếu có). Trường hợp cần gia hạn, thì phải có đơn xin gia hạn gửi cho Tòa án nêu rõ lý do để Tòa án xem xét. Hết thời hạn này mà người được thông báo không có ý kiến gì đối với các yêu cầu của người khởi kiện mà không có lý do chính đáng, thì Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo cho các đương sự được đưa ra các tài liệu chứng cứ bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình.

[4] Tuy nhiên hết thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo thụ lý, người đại diện theo pháp luật của Công ty APlà Ông Trần Văn L không có bất kỳ văn bản ý kiến gì.

[5] Ngày 22 tháng 11 năm 2022, Tòa án cấp sơ thẩm ban hành thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và ấn định ngày mở vào hồi 14 giờ 00 phút, ngày 06 tháng 12 năm 2022. Ngày 24 tháng 11 năm 2022 Tòa án cấp sơ thẩm đã tống đạt trực tiếp cho ông Trần Văn L – Giám đốc Công ty APký nhận. Tuy nhiên tại phiên họp ngày 06 tháng 12 năm 2022 ông Trần Văn L – chức vụ Giám đốc Công ty APđồng thời là người đại diện pháp luật của Công ty không có mặt và cũng không ủy quyền cho ai tham gia tố tụng.

[6] Ngày 06 tháng 12 năm 2022, Tòa án cấp sơ thẩm tiếp tục ban hành thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và ấn định ngày mở vào hồi 13 giờ 30 phút, ngày 19 tháng 12 năm 2022. Ngày 08 tháng 12 năm 2022 Tòa án cấp sơ thẩm đã tống đạt trực tiếp cho Bùi Thị Mai là vợ của ông Trần Văn L – Giám đốc Công ty APký nhận.

[7] Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, ông Trần Văn L - Giám đốc Công ty APcó mặt và có quan điểm ý kiến “AP ký hợp đồng thuê tàu (Hợp đồng số 01) với VSG để kinh doanh. Sau khi ký hợp đồng AP đã đặt cọc số tiền 600.000.000 đồng với điều kiện tàu hoạt động bình thường. Khi bàn giao tàu cho AP tàu không hoạt động được. Vì vậy AP phải cho tàu Xuân Hiếu Group 286 đi sửa chữa hết khoảng 2.700.000.000 đồng. AP thừa nhận và vẫn có trách nhiệm trả số tiền tạm tính đến ngày 19/12/2022 là 1.846.135.649 đồng và tiếp tục thanh toán tiền cước thuê tàu còn thiếu và tiền lãi chậm thanh toán cho đến khi AP trả hết nợ với điều kiện VSG phải trả AP số tiền sửa tàu khoảng 2.700.000.000 đồng và trình bày sẽ cung cấp tài liệu chứng cứ sau cho Tòa án”.

Tuy nhiên Công ty APkhông cung cấp được các tài liệu chứng cứ kèm theo.

[8] Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành các văn bản tố tụng và tống đạt văn bản tố tụng theo đúng quy định pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích cho các đương sự trong vụ án. Tuy nhiên phía bị đơn Công ty APđã không thực hiện đúng thời hạn về việc cung cấp tài liệu chứng cứ và cũng không làm đơn yêu cầu theo Điều 199 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ khoản 6 Điều 72 và Điều 200 Bộ luật Tố tụng Dân sự “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải” để không xem xét giải quyết trong vụ án là có căn cứ đúng quy định pháp luật.

[9] Do Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét yêu cầu đề nghị đối trừ số tiền 2.700.000.000 đồng của công ty AP đã tiến hành sửa chữa trong thời gian thuê tàu trần đối với số tiền công ty còn nợ Công ty Containernên căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng Dân sự về phạm vi xét xử phúc thẩm Tòa án cấp phúc thẩm không có căn cứ xem xét giải quyết. Vì vậy không chấp nhận kháng cáo của Công ty AP [10] Đối với khoản tiền thuê tàu và lãi chậm trả theo Hợp đồng thuê tàu trần số 01/2020/VSG-AP ngày 28 tháng 4 năm 2020 được ký kết giữa Công ty Containervà Công ty TNHH Hàng Hải AP. Đến ngày xét xử sơ thẩm, VSG yêu cầu AP phải thanh toán cho VSG tổng số tiền tính đến hết ngày 23/3/2023 là 1.955.170.713 đồng (đã trừ đi 600.000.000 đồng tiền đặt cọc), trong đó tiền thuê tàu là 1.516.904.169 đồng, tiền lãi chậm thanh toán là 438.266.544 đồng và 0 đồng tiền phạt chậm bàn giao tàu. AP còn phải tiếp tục thanh toán tiền lãi do chậm thực hiện việc thanh toán tiền thuê tàu cho đến khi AP thực hiện xong việc thanh toán công nợ cho VSG theo hợp đồng đã ký. VSG rút yêu cầu AP phải trả tàu Xuân Hiếu Group 286. MSB đồng ý với quan điểm này và không có ý kiến gì đối với tàu Xuân Hiếu Group 286. Công ty AP thừa nhận và chấp nhận trả tiền cho VSG theo như yêu cầu của VSG.

[11] Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc Công ty APphải trả cho VSG tổng số tiền tính đến ngày 23/3/2023 là 1.955.170.713 đồng; trong đó: tiền thuê tàu là 1.516.904.169 đồng; tiền lãi chậm trả tiền thuê tàu là 438.266.544 đồng và 0 đồng tiền phạt chậm bàn giao tàu và tuyên phần lãi suất chậm thi hành án dân sự; đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc AP phải trả cho VSG 01 con tàu Xuân Hiếu Group 286 theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tàu biển số VN- 3926-VT do cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực Hải Phòng cấp ngày 04/12/2015 là có căn cứ đúng quy định pháp luật.

- Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên Công ty APphải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH Hàng Hải AP; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 244 Bộ lut T tng n sự; - Căn cứ Điều 4, Điều 271, khoản 1 Điều 281, các điều 300, 301, 306 Luật Thương mại; - Căn cứ các điều 116, 117, 119, 120, 274, 280, 328, 357, 428, 472, 473, 474, 475, 476, 477, 479, 481 Bộ lut Dân sự; - Căn cứ các điều 215, 216, 229, 230, 231, 232, 233 Bộ luật ng hi; - Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. 1. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc AP phải trả cho VSG 01 con tàu Xuân Hiếu Group 286 theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tàu biển số VN-3926-VT do cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực Hải Phòng cấp ngày 04/12/2015.

1. 2. Buộc AP phải trả cho VSG tổng số tiền tính đến ngày 23/3/2023 là 1.955.170.713 đồng; trong đó: tiền thuê tàu là 1.516.904.169 đồng; tiền lãi chậm trả tiền thuê tàu là 438.266.544 đồng và 0 đồng tiền phạt chậm bàn giao tàu.

1. 3. Kể từ ngày 24/3/2023 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền thuê tàu còn phải thi hành theo mức lãi suất 20%/năm các bên thỏa thuận trong Hợp đồng thuê tàu trần số 01/2020/VSG-AP ngày 28/4/2020 đã ký kết giữa VSG và AP.

- Về án phí sơ thẩm: Công ty APphải chịu số tiền 70.656.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Trả lại VSG số tiền tạm ứng án phí 28.000.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008240 ngày 19 tháng 10 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.

- Về án phí phúc thẩm: Công ty APphải chịu 2.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008618 ngày 24 tháng 5 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Công ty APđã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng thuê tàu trần số 18/2023/KDTM-PT

Số hiệu:18/2023/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành:21/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về