Bản án về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản số 06/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 06/2023/DS-PT NGÀY 06/01/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THUÊ TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 171/2022/TLPT-DS, ngày 11 tháng 11 năm 2022.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 122/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 143/2022/QĐ-PT ngày 28 tháng 11 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trương Văn K, sinh năm 1983. Địa chỉ: Số 37, Đường Nguyễn Thái Học, Khóm 7, Phường 1, thành phố Bạc L, tỉnh Bạc L (có mặt).

- Bị đơn: 1. Bà Nguyễn Thị Thúy A, sinh năm 1991 2. Ông Nguyễn Phạm Nhật Q, sinh năm 1992.

Cùng địa chỉ: Ấp Xẻo C, thị trấn Châu H, huyện Vĩnh L, tỉnh Bạc L.

Người đại diện theo ủy quyền của bà A và ông Q: Ông Nguyễn Duy S, sinh năm 1981. Địa chỉ: Số 45H, Đường Lê D, Khóm 7, Phường 1, thành phố Bạc L, tỉnh Bạc L (Theo văn bản ủy quyền ngày 26/5/2022) (yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Võ Ngọc H, sinh năm 1987. Địa chỉ: Số 153B/7, khóm Bờ T, phường Nhà M, thành phố Bạc L, tỉnh Bạc L (yêu cầu xét xử vắng mặt).

2. Anh Võ Hoài N, sinh năm 1993. Địa chỉ: Ấp Hậu Bối 2, xã Minh D, huyện Hòa B, tỉnh Bạc L(vắng mặt).

3. Ngân hàng Thương mại C Việt N. Trụ sở: Số 198 Trần Quang K, Phường Lý Thái T, quận Hoàn K, Thành phố Hà N.

Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng Thương mại C Việt N: Ông Võ Thanh D, sinh năm 1989. Địa chỉ: Số 02 Hoàng Văn T, Phường 3, thành phố Bạc L, tỉnh Bạc L (yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Phạm Nhật Q và bà Nguyễn Thị Thúy A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nội dung vụ án theo Bản án sơ thẩm:

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/4/2022 của ông Trương Văn K và trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện nguyên đơn là bà Nguyễn Việt Q trình bày:

Hộ kinh doanh dịch vụ xe Văn K do ông Trương Văn K làm chủ, được cấp giấy chứng nhận hộ kinh doanh với ngành nghề kinh doanh dịch vụ cho thuê xe tự lái. Vào ngày 21/01/2022 bà Nguyễn Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q thuê xe hiệu RIO – biển số kiểm soát 94A – 022xx (chủ phương tiện đứng tên Võ Ngọc H là vợ ông K) từ ngày 27/01/2022 đến ngày 31/01/2022 với giá 1.000.000 đồng/ngày. Ông K thống nhất cho bà A và ông Q thuê, do tin tưởng vì là khách quen nên việc cho thuê xe không ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, sau khi nhận xe phía bà A, ông Q đã cho ông Võ Hoài N ngụ tại xã Minh D, huyện Hòa B thuê lại xe. Trong quá trình sử dụng xe thì ông N lái xe xảy ra tai nạn dẫn đến hậu quả xe hư hỏng nặng và biến dạng. Sau khi xảy ra tai nạn, xe được đưa về Đội Cảnh sát giao thông Công an thành phố Bạc L và sau đó trả về cho ông K và bà H. Sau đó, ông K chuyển xe đến Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên ô tô Trường Hải Bạc L; trụ sở số 1, quốc lộ 1A, Khóm 1, thành phố Bạc L, tỉnh Bạc L để kiểm tra độ hư hỏng của xe và đề nghị báo giá sữa chữa. Tại bảng báo giá sửa chữa xe ngày 09/3/2022 của Công ty TNHHMTV ô tô Trường Hải Bạc L có đính kèm chi tiết các linh kiện hư hỏng và báo toàn bộ chi phí là 361.826.115 đồng. Ông K cũng có yêu cầu Công ty bảo hiểm PJICO Bạc L bồi thường nhưng phía Công ty xác định trường hợp tai nạn của ô tô 94A – 022xx do ông Võ Hoài N trực tiếp điều khiển không thuộc phạm vi bảo hiểm vì điều khiển xe trong tình trạng hơi thở có độ cồn 0,089mg/l và giấy phép lái xe mang tên Võ Hoài N không do Sở Giao thông vận tải tỉnh Bạc Liêu cấp, cũng không nằm trong hệ thống quản lý của Sở Giao thông Vận tải tỉnh Bạc Liêu. Ông K yêu cầu vợ chồng bà An và ông Quang bồi thường khắc phục hậu quả nhưng không bồi thường. Từ khi xảy ra sự việc đến nay xe ông Khởi hư hỏng toàn bộ, đồng thời chiếc xe 94A- 022xx là nguồn thu nhập chính của ông Khởi không thể hoạt động được dẫn đến tình hình kinh doanh khó khăn. Nay yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các khoản yêu cầu bồi thường cụ thể như sau: Chi phí sữa chữa xe theo bảng báo giá sửa chữa xe ngày 09/3/2022 của Công ty TNHHMTV ô tô Trường Hải Bạc L là 361.826.115 đồng và tiền thiệt hại do xe hư hỏng không thể kinh doanh dịch vụ cho thuê xe 20.000.000 đồng/tháng, tính từ ngày 31/01/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm.

Ông Nguyễn Duy S trình bày: Bà Nguyễn Thị Thuý A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q là vợ chồng, có quen biết với ông Trương Văn K thông qua việc hai bên có dịch vụ cho thuê xe. Bà A và ông Q cũng có xe ô tô nên khi ông Khởi có khách thuê xe mà không có xe trống thì nhận xe của bà A và ông Q để cho thuê lại và ngược lại. Ngày 27/01/2022, bà A có khách cần thuê xe nhưng không có xe trống nên bà An có liên lạc với ông K về việc có người thuê xe. Khoảng 10 giờ ngày 27/01/2022, ông K điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 94A-022xx đến khu dân cư Tràng A để giao xe. Giữa bà A và ông K chỉ thoả thuận qua điện thoại về giá ông K cho thuê xe là 1.000.000 đồng/ngày, thời gian thuê xe là 4 ngày, ngoài ra không có thoả thuận gì khác. Đến ngày 30/01/2022, do không có nhu cầu nên bà A có liên lạc với ông K để nhận lại xe thì ông K không đồng ý nhận xe trước hạn. Khoảng tối ngày 30/01/2022, ông Võ Hoài N, địa chỉ ấp Hậu Bối 2, xã Minh D, huyện Hoà B, tỉnh Bạc L là khách hàng thường thuê xe của bà A đến thuê xe, bà A cho ông N thuê lại xe 94A-022xx. Rạng sáng ngày 31/01/2022, ông K liên lạc báo cho bà A về việc xe 94A-022xx do ông N điều khiển xảy ra tai nạn. Tuy nhiên, trong suốt quá trình xử lý vụ việc tai nạn tại Đội Cảnh sát giao thông Công an thành phố Bạc L, bà A và ông Q không có được mời để tham gia giải quyết bất kỳ vấn đề gì. Cũng như không biết thông tin về việc giải quyết của cơ quan Công an như thế nào đối với vụ việc tai nạn trên. Nay ông K yêu cầu bà A và ông Q bồi thường thiệt hại số tiền theo bảng báo giá sửa chữa xe 361.826.115 đồng và tiền thiệt hại không thể kinh doanh dịch vụ 20.000.000 đồng/tháng, từ ngày 31/01/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm thì bà A và ông Q không đồng ý.

Tại đơn yêu cầu độc lập đề ngày 25/8/2022, bà A và ông Q yêu cầu ông N có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà A và ông Q theo như yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là 361.826.115 đồng và tiền thiệt hại do xe hư hỏng không thể kinh doanh dịch vụ cho thuê xe 20.000.000 đồng/tháng, tính từ ngày 31/01/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Võ Ngọc H trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của chồng bà là ông Trương Văn K. Do bận công việc nên bà đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Võ Hoài N: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không cung cấp tài liệu, chứng cứ cũng như không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và bị đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng Thương mại C Việt Nam có Đơn khởi kiện ngày 05/8/2022 thể hiện: Ngày 12/10/2018, bà H và ông K ký kết hợp đồng tín dụng số 146/VCB.BLI.19 với Ngân hàng Thương mại C Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng) số tiền 200.000.000 đồng. Thời hạn là 60 tháng, dư nợ còn lại là 68.000.000 đồng.

Ngày 20/5/2019, bà H và ông K ký kết hợp đồng tín dụng số 146/VCB.BLI.19 với Ngân hàng số tiền là 48.000.000 đồng. Thời hạn là 60 tháng, dư nợ còn lại là 18.400.000 đồng.

Ngày 29/5/2020, bà H và ông K ký kết hợp đồng tín dụng số 185/VCB.BLI.20 với Ngân hàng số tiền 100.000.000 đồng. Thời hạn vay là 60 tháng, dư nợ còn lại là 30.528.475 đồng.

Để đảm bảo khoản vay trên, bà H và ông K với Ngân hàng ký kết Hợp đồng thế chấp số 167/VCB.BLI.18 ngày 12/10/2018. Nội dung, bà Hân và ông K thế chấp chiếc xe ô tô con theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 008322 do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bạc L cấp ngày 08/10/2018 cho bà Võ Ngọc H. Đặc điểm kỹ thuật: Nhãn hiệu KIA, số loại RIO, loại xe: Ô tô con, màu trắng, số chỗ ngồi: 5 chỗ; số máy: G4FAGS110609, số khung: 412AG6079330.

Nay Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc bà H và ông K thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng tạm tính đến ngày 05/8/2022 là 116.928.475 đồng và tiền lãi phát sinh sau ngày 05/8/2022 theo thỏa thuận hợp đồng cho đến khi thanh toán dứt nợ. Trường hợp bà H và ông K không trả được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ thì yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số 167/VCB.BLI.18 ngày 12/10/2018.

Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của ông K xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu bồi thường chi phí sửa chữa xe số tiền 89.728.115 đồng. Nay chỉ yêu cầu bà A và ông Q có trách nhiệm bồi thường cho ông K chi phí sửa chữa xe số tiền 272.098.000 đồng và tiền thiệt hại không thể kinh doanh tính từ ngày 31/01/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm (08 tháng, mỗi tháng 20.000.000 đồng) bằng số tiền 160.000.000 đồng. Đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng về việc yêu cầu bà H và ông K thanh toán số tiền 103.723.239 đồng và phát mãi tài sản thế chấp nếu không thanh toán không đầy đủ cho Ngân hàng.

Ông Nguyễn Duy S trình bày: Đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông K về việc yêu cầu bà A và ông Q có trách nhiệm bồi thường chi phí sửa chữa xe cho ông Khởi số tiền 272.098.000 đồng. Không đồng ý bồi thường thiệt hại do không thể kinh doanh số tiền 160.000.000 đồng. Đối với yêu cầu độc lập của bà A và ông Q, người đại diện của bà A và ông Q xin rút một phần yêu cầu bồi thường chi phí sửa chữa xe số tiền 89.728.115 đồng. Nay chỉ yêu cầu Tòa án buộc ông Võ Hoài N có trách nhiệm trả cho bà A và ông Q chi phí sửa chữa xe số tiền 272.098.000 đồng và tiền thiệt hại do không thể kinh doanh tính từ ngày 31/01/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm (08 tháng, mỗi tháng 20.000.000 đồng) bằng số tiền 160.000.000 đồng.

Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 122/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu tuyên xử:

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn K đối với bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q.

1.1. Buộc bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q có trách nhiệm trả cho ông Trương Văn Khởi số tiền 432.098.000 đồng (bốn trăm ba mươi hai triệu không trăm chín mươi tám nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

1.2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn K yêu cầu bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q trả số tiền 89.728.115 đồng (tám mươi chín triệu bảy trăm hai mươi tám nghìn một trăm mười lăm đồng).

2. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q đối với ông Võ Hoài N.

2.1. Buộc ông Võ Hoài N có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q số tiền 432.098.000 đồng (bốn trăm ba mươi hai triệu không trăm chín mươi tám nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2.2. Đình chỉ một phần yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q yêu cầu ông Võ Hoài N trả số tiền 89.728.115 đồng (tám mươi chín triệu bảy trăm hai mươi tám nghìn một trăm mười lăm đồng).

3. Chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàng Thương mại C Việt Nam đối với bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K.

3.1. Buộc bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng Thương mại C Việt Nam số tiền 103.723.239 đồng (một trăm lẻ ba triệu bảy trăm hai mươi ba nghìn hai trăm ba mươi chín đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 01/10/2022), bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K còn phải tiếp tục thanh toán khoản tiền lãi phát sinh từ nợ gốc còn phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại C Việt Nam theo mức lãi suất được quy định theo hợp đồng đến khi thanh toán hết nợ. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng Thương mại C Việt N thì lãi suất mà bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Thương mại C Việt N.

3.2. Không chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàng Thương mại C Việt Nam yêu cầu bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K trả số tiền 13.205.236 đồng (mười ba triệu hai trăm lẻ năm nghìn hai trăm ba mươi sáu đồng).

3.3. Trường hợp bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ cho Ngân hàng Thương mại C Việt Nam thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp là chiếc xe nhãn hiệu KIA, số loại RIO, loại xe: Ô tô con, màu trắng, số chỗ ngồi: 5 chỗ; số máy: G4FAGS110609, số khung: 412AG6079330 theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 008322 do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 08/10/2018 cho bà Võ Ngọc H (Theo Hợp đồng thế chấp số 167/VCB.BLI.18 ngày 12/10/2018).

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí thẩm định tài sản, về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 14 tháng 10 năm 2022, bị đơn ông Nguyễn Phạm Nhật Q và bà Nguyễn Thị Thúy A kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc bồi thường thiệt hạn do xe không kinh doanh được số tiền 160.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu ý kiến:

- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Tại phiên tòa ông Khởi tự nguyên giảm 50% về bồi thường thiệt hại do xe không kinh doanh được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Khởi, sửa một phần Bản án sơ thẩm về bồi thường thiệt hại do xe không kinh doanh được với số tiền là 80.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến trình bày của đương sự và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu, sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Ngày 27/01/2022 ông Q, bà A thuê xe ô tô biển số 94A-022xx của ông K, thời hạn thuê đến ngày 31/01/2022 với giá 1.000.000 đồng/ ngày. Đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Sau khi thuê xe thì ông Q bà A cho người khác là ông Võ Hoài N thuê lại nhưng chưa có sự đồng ý của ông K. Ông Nhớ điều khiển xe trong tình trạng hơi thở có độ cồn 0,089mg/l và không có giấy phép lái xe theo quy định gây tai nạn làm hư hỏng nặng chiếc xe, nên Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K, buộc ông Q, bà A bồi thường chi phí sửa chữa xe là phù hợp, đúng quy định pháp luật. Phần bồi thường này các bên đương sự không có kháng cáo, Viện kiểm sát không có kháng nghị, nên đã có hiệu lực pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị đơn ông Q, bà A, Hội đồng xét xử nhận thấy: Ông K kinh doanh dịch vụ cho thuê xe ô tô, do xe bị tai nạn hư hỏng nên ông K mất thu nhận do không kinh doanh được. Xét thấy, thực tế ông Q, bà A thừa nhận thuê xe mỗi ngày 1.000.000 đồng, ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm có xác minh nhiều người thuê xe tự lái cũng đều xác định giá thuê xe mỗi ngày khoảng 800.000 đồng. Do đó, Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông K về yêu cầu bồi thường do xe không kinh doanh được trong 8 tháng với mỗi tháng 20.000.000 đồng là phù hợp. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm ông Khởi tự nguyện chỉ yêu cầu thiệt hại do xe không kinh doanh được mỗi tháng 10.000.000 đồng. Xét thấy, sự tự nguyện của ông Khởi không bị ai ép buộc, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, đồng thời có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của ông Q, bà A, sửa một phần Bản án sơ thẩm về bồi thường thiệt hại do xe không kinh doanh được, theo đó buộc ông Q, bà A bồi thường khoản thiệt hại này là 80.000.000 đồng và buộc ông N bồi thường số tiền này cho ông Q bà A.

[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn; có căn cứ chấp nhận phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 122/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.

[4] Về án phí: Do chấp nhận một phần kháng cáo của ông Q, bà A, nên án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch có thay đổi đối với ông Q, bà A và ông Nhớ.

Án Phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Phạm Nhật Q và bà Nguyễn Thị Thúy A không phải chịu án phí. Ông Quang, bà An đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0001238 ngày 18/10/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu được hoàn lại.

[5] Các phần khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã phát có hiệu lực pháp luật, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Phạm Nhật Q và bà Nguyễn Thị Thúy A. Sửa một phần Bản án sơ thẩm số: 122/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 157, Điều 165, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 357, 468, 472, 473, 474, 481 và Điều 482 của Bộ luật Dân sự; Điều 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; điểm b khoản 1 Điều 24; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn K đối với bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q.

1.1. Buộc bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q có trách nhiệm trả cho ông Trương Văn K số tiền 352.098.000 đồng (ba trăm năm mươi hai triệu không trăm chín mươi tám nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

1.2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn K yêu cầu bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q trả số tiền 89.728.115 đồng (tám mươi chín triệu bảy trăm hai mươi tám nghìn một trăm mười lăm đồng).

2. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q đối với ông Võ Hoài N.

2.1. Buộc ông Võ Hoài N có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q số tiền 352.098.000 đồng (ba trăm năm mươi hai triệu không trăm chín mươi tám nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2.2. Đình chỉ một phần yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thúy An và ông Nguyễn Phạm Nhật Quang yêu cầu ông Võ Hoài Nhớ trả số tiền 89.728.115 đồng (tám mươi chín triệu bảy trăm hai mươi tám nghìn một trăm mười lăm đồng).

3. Chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàng Thương mại C Việt Nam đối với bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K.

3.1. Buộc bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng Thương mại C Việt N số tiền 103.723.239 đồng (một trăm lẻ ba triệu bảy trăm hai mươi ba nghìn hai trăm ba mươi chín đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 01/10/2022), bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K còn phải tiếp tục thanh toán khoản tiền lãi phát sinh từ nợ gốc còn phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại C Việt Nam theo mức lãi suất được quy định theo hợp đồng đến khi thanh toán hết nợ. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng Thương mại C Việt Nam thì lãi suất mà bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Thương mại C Việt Nam.

3.2. Không chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàng Thương mại C Việt Nam yêu cầu bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K trả số tiền 13.205.236 đồng (mười ba triệu hai trăm lẻ năm nghìn hai trăm ba mươi sáu đồng).

3.3. Trường hợp bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ cho Ngân hàng Thương mại C Việt Nam thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp là chiếc xe nhãn hiệu KIA, số loại RIO, loại xe: Ô tô con, màu trắng, số chỗ ngồi: 5 chỗ; số máy: G4FAGS110609, số khung: 412AG6079330 theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 008322 do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 08/10/2018 cho bà Võ Ngọc H (Theo Hợp đồng thế chấp số 167/VCB.BLI.18 ngày 12/10/2018).

4. Chi phí xem xét, thẩm định và định giá là 9.040.000 đồng. Ông Trương Văn K đã nộp xong và chi hết. Buộc bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q có trách nhiệm trả cho ông Trương Văn K số tiền 9.040.000 đồng (chín triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng).

5. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q phải nộp số tiền 17.604.900 đồng (mười bảy triệu sáu trăm lẻ bốn nghìn chín trăm đồng). Bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q đã nộp 9.045.000 đồng (chín triệu không trăm bốn mươi lăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0001144 ngày 29/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lợi được chuyển thu án phí nên bà Nguyễn Thị Thúy A và ông Nguyễn Phạm Nhật Q còn tiếp tục nộp số tiền 8.559.900 đồng (tám triệu năm trăm năm mươi chín nghìn chín trăm đồng).

Buộc ông Võ Hoài N phải nộp số tiền 17.604.900 đồng (mười bảy triệu sáu trăm lẻ bốn nghìn chín trăm đồng).

Buộc bà Võ Ngọc H và ông Trương Văn K phải nộp số tiền 5.186.126 đồng (năm triệu một trăm tám mươi sáu nghìn một trăm hai mươi sáu đồng). Ông Trương Văn K đã nộp 9.045.000 đồng (chín triệu không trăm bốn mươi lăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0001008 ngày 06/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lợi nên được chuyển thu án phí và ông Trương Văn K được hoàn lại số tiền 3.858.874 đồng (ba triệu tám trăm năm mươi tám nghìn tám trăm bảy mươi bốn đồng).

Buộc Ngân hàng Thương mại C Việt Nam phải nộp số tiền 660.262 đồng (sáu trăm sáu mươi nghìn hai trăm sáu mươi hai đồng). Ngân hàng Thương mại C Việt Nam đã nộp 2.923.000 đồng (hai triệu chín trăm hai mươi ba nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0001143 ngày 29/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lợi nên được chuyển thu án phí và Ngân hàng Thương mại C Việt Nam được hoàn lại số tiền 2.262.738 đồng (hai triệu hai trăm sáu mươi hai nghìn bảy trăm ba mươi tám đồng).

6. Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản số 06/2023/DS-PT

Số hiệu:06/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:06/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về